truyen-thuyet-va-huyen-thoai-ve-ba-chua-xu-chau-doc-an-giang-
Truyền Thuyết và Huyền Thoại về Bà Chúa Xứ Châu Đốc – An Giang
- bởi map --
- 04/12/2014
Truyền thuyết và các huyền thoại xung quanh tượng Bà và nguồn gốc của tượng Bà đến nay cũng ko rõ.
Trong quá khứ, khi dân chúng được che chở dưới sự bảo hộ của Bà thì Bà hiện xưng là Bà Chúa Xứ (có nghĩa là Bà chủ Bà Chúa của nơi đất địa này).
Cấu trúc tượng bà ko có tay chân hay khuôn mặt rõ ràng, toàn thân bà là hình khối đá nặng hơn 3 tấn, người dân khi Phụng Thỉnh Bà xuống núi và an vị đã vẽ thêm nét mặt của Bà.
Do vậy toàn thân Bà được phủ trong áo bào của dân chúng phụng cúng, đầu đội mão, đôi mắt cùng ánh mắt long lanh có thần sống động, đôi khi với các tín đồ rất rất rất ư tin tưởng và phụng thờ, họ luôn cảm ứng về sự linh thiêng của Đức Bà.
Riêng Cao Đài Giáo Lý phong bà hiệu là: Khiết Cửu Nương.
Sau đây là các tài liệu, mời mọi người tham khảo:
Miếu Bà Chúa Xứ là một công trình kiến trúc đẹp và tôn nghiêm, tọa lạc dưới chân núi Sam, thuộc phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang. Đây là một di tích nổi tiếng ở khắp vùng Đồng bằng sông Cửu Long, hàng năm thu hút gần 2 triệu lượt người đến cúng bái, tham quan. Khách hành hương, du lịch đến từ khắp nơi trên cả nước, tạo nên một mùa lễ hội sôi nổi, đông đảo kéo dài suốt nhiều tháng.
Theo số liệu của Sở Văn hoá – Thể thao – Du lịch An Giang, nếu năm 1990 có khoảng 1 triệu du khách đến miếu Bà thì năm 2007 đã có trên 2,5 triệu lượt người đến. Sồ tiền khách thập phương hỷ cúng tại miếu mỗi năm lên đến hàng chục tỷ đồng. Nhiều dự án giao thông, trường học, trạm cấp nước phục vụ cho dân làng Vĩnh Tế đã được xây dựng từ nguồn tiền này.
Năm 2001, lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam được chính thức công nhận là lễ hội quốc gia. Năm 2008, lễ hội được tổ chức với tên gọi Tuần lễ quốc gia Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam. Lễ hội chính thức khai mạc vào tối ngày 25-05 tại Trung tâm thương mại núi Sam. Lễ khai mạc đã thu hút khoảng 10.000 lượt khách trong nước và quốc tế đến tham dự. Dịp này, Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã tiến hành nghi thức trao giấy xác nhận và cúp lưu niệm kỷ lục Việt Nam đối với “Ngôi miếu lớn nhất Việt Nam” và “Tượng bà bằng đá sa thạch xưa và lớn nhất Việt Nam” cho đại diện Ban quản trị lăng miếu núi Sam.
Lịch sử:
Miếu Bà có từ khi nào cho đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn, nhưng nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều cho rằng miếu thành hình sau năm 1824. Tương truyền, lúc đầu, miếu Bà được xây dựng đơn sơ bằng tre lá, nằm trên vùng đất trũng, lưng quay về vách núi, chánh điện nhìn ra cánh đồng bát ngát. Năm 1870, miếu được xây lại bằng đá miểng và lợp ngói. Đến năm 1972, miếu được xây dựng mới, đồ sộ và lộng lẫy theo lối kiến trúc cổ kính phương Đông. Công trình là một quần thể hoành tráng trên mặt bằng rộng với dãy Đông lang, Tây lang, chánh điện, nhà khách…theo đồ án của kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng, nhưng xây dựng dở dang. Mãi đến năm 1995, Ban Quản trị lăng miếu núi Sam mới tiếp tục xây dựng phần còn lại.
Tương truyền, dưới triều Minh Mạng, khi Thoại Ngọc Hầu giữ trọng trách trấn giữ biên giới Tây Nam, giặc ngoại xâm thường sang quấy nhiễu. Mỗi lần ông xuất quân, bà chánh thất phu nhân Châu Thị Tế thường đến khấn vái, mong Bà phù hộ Thoại Ngọc Hầu đánh thắng giặc, bảo vệ cuộc sống yên lành cho dân. Về sau, để tạ ơn những điều ứng nghiệm, phu nhân Thoại Ngọc Hầu đã cho xây cất lại ngôi miếu to và khang trang hơn. Lễ khánh thành được tổ chức trong 3 ngày 24, 25, 26 tháng 4 âm lịch. Từ đó về sau thành lệ, dân chúng lấy những ngày trên làm lễ Vía Bà. Nếu chi tiết này có thật, thì đây cũng là một thông tin cho biết rằng miếu Bà Chúa Xứ được xây dựng từ thời Minh Mạng.
Kiến trúc:
Ngôi miếu có bố cục kiểu chữ 国 – Quốc, hình khối tháp dạng hoa sen nở, mái tam cấp ba tầng lầu, lợp ngói đại ống màu xanh, góc mái vút cao như mũi thuyền đang lướt sóng. Các hoa văn ở cổ lầu chánh điện thể hiện đậm nét nghệ thuật. Phía trên cao, các tượng thần khỏe mạnh, đẹp đẽ giăng tay đỡ những đầu kèo. Các khung bao, cánh cửa đều được chạm trổ, khắc, lộng tinh xảo và nhiều liễn đối, hoành phi lộng lẫy. Đặc biệt, bức tường phía sau tượng Bà, bốn cây cột cổ lầu trước chánh điện gần như được giữ nguyên như cũ.
Chánh điện gồm hai lớp. Lớp trong cùng là nơi thờ Bà Chúa Xứ với tượng Bà bằng đá đặt trên bệ cao, sát hai bên là hai con hạc trắng biểu tượng cốt cách tiên thánh của Bà. Bên phải tượng Bà là một linga cũng bằng đá đặt trên một hương án thờ, gọi là bàn thờ Cậu. Bên trái tượng Bà là hương án thờ một tượng gỗ chạm hình yoni, gọi là bàn thờ Cô. Lớp thứ hai là bàn thờ Hội đồng, sát liền hai tượng chim phượng. Hai bên trái, phải của bàn thờ Hội đồng là bàn thờ Tiền hiền khai khẩn (ở bên trái) và bàn thờ Hậu hiền khai cơ (ở bên phải).
Ngay lối vào chánh điện có đôi câu đối thể hiện quyền lực linh thiêng của Bà trong việc ban phúc, bảo vệ nhân dân. Nội dung như sau:
Phiên âm:
Dịch nghĩa:
Người Xiêm phải sợ, người Thanh phải nể, không thể tưởng tượng nổi
Truyền thuyết:
Thời gian sau, Bà thường hiện về xưng là Bà Chúa Xứ, dạy dân làng khiêng xuống núi lập miếu thờ cúng. Bà sẽ phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, tránh được giặc cướp quấy phá, thoát khỏi dịch bệnh hoành hành. Thấy vậy, dân làng họp nhau lên núi khiêng tượng về thờ cúng. Nhưng lạ thay, dù mấy chục thanh niên trai tráng hò nhau gắng sức vẫn không lay chuyến nổi tượng Bà. Trong lúc mọi người đang rất thất vọng, có ý định bỏ dở thì một cô gái trong làng bỗng dưng lên đồng cho biết : “Bà chỉ cần 9 cô gái đồng trinh lên khiêng”. Dân làng làm theo lời dạy ấy và qủa đúng thật 9 cô gái đồng trinh khiêng tượng Bà đi xuống một cách nhẹ nhàng.
Bỗng nhiên khi đi đến chân núi thì tượng Bà trở nên nặng, không thể khiêng nổi thêm một bước nào nữa. Khi đó mọi người đã hiểu rằng, Bà đã chọn nơi đây để an vị nên đã không cố gắng di chuyển đi nữa mà lập miếu thờ cúng chỗ đó.
Khảo cứu
Các nhà nghiên cứu phỏng đoán tượng Bà được tạc vào thế kỷ VI, theo mô típ tượng thần Vinus thường thấy ở các nước Lào, Campuchia, Ấn Độ. Thực chất, tượng Bà vốn là một pho tượng đá, thể hiện dáng hình một người đàn ông trong tư thế ngồi, chân trái của tượng xếp bằng tròn, mũi bàn chân giáp với chân phải; chân phải để gập, co gối, chống thẳng bàn chân xuống mặt bệ đá. Tay trái của tượng ở tư thế chống nạnh, bàn tay xoải xuống mặt bệ đá, phía sau đùi trái. Tay phải tượng thả tự nhiên, bàn tay úp trên đầu gối phải. Tóc tượng uốn thành những búp xoăn, thả về phía sau. Trên mặt tượng có một vành ngấn, là nơi đặt mão lên đầu tượng. Trong vành ngấn này có những hoa văn hình móc câu, riêng ở phần vành nằm trước trán của tượng có một hình tròn, chung quanh là những hoa văn kiểu ngọn lửa. Trên cánh tay để trần của tượng có một vành đai, giống như cái vòng đeo tay. Toàn bộ dáng hình của pho tượng là dáng hình một người đàn ông tràn đầy sức sống, với bộ ngực căng nở và chiếc bụng phệ. Trên ngực của tượng có một vành đai như vòng kiềng, trước ngực là hình mảnh trăng lưỡi liềm khá rộng. Toàn bộ pho tượng cao chừng 1,25 m, được tạc liền một thớt đá cùng loại, với bệ tượng dày chừng 10 cm. Về trang phục, tượng được tạc trong tư thế đang vận một chiếc khố. Ở bắp cánh tay, gần bả vai của tượng, sát nách, nổi cộm một vòng đai có hình dạng như một chiếc vòng đeo tay. Ở cổ tượng nổi cộm một vòng đai hình vòng kiềng, chỗ vòng nằm ngay ngực khá to, hình lưỡi liềm, có lẽ là một thứ vòng đeo cổ xưa.
Nhà văn Sơn Nam từng viết: “Tượng của Bà là pho tượng Phật đàn ông của người Khmer, bị bỏ quên lâu đời trên đỉnh núi Sam. Người Việt đưa tượng vào miếu, điểm tô lại với nước sơn, trở thành đàn bà mặc áo lụa, đeo dây chuyền. Và từ đó “Bà Chúa Xứ” là vị thần có quyền thế lớn ở khu vực ấy, xứ ấy…..”.
Theo nhà khảo cổ học người Pháp, ông Malleret, trong thời gian tiến hành khai quật khu di chỉ Óc Eo từ năm 1942 đến năm 1944, ông có đến núi Sam nghiên cứu tượng Bà Chúa Xứ và cho biết rằng đây là loại tượng nam thần, được tạo theo dáng người ngồi nghỉ ngơi, vương giả, vật liệu bằng sa thạch, giá trị nghệ thuật cao. Năm 1989, một đoàn ngoại giao Ấn Độ có đến thăm vùng này, vào miếu Bà Chúa Xứ, họ rất ngạc nhiên khi được gặp tượng thần Shivalinga ở khu vực núi Sam trong danh xưng Bà Chúa Xứ.
Lễ hội:
Hàng năm, lễ hội “Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam” diễn ra từ ngày 23 đến 27-04 âm lịch. Hàng vạn người đổ về dự lễ và tham gia các trò vui như: hát bội, múa võ, ca nhạc ngũ âm, múa lân, đánh cờ… Phần lễ có những nghi lễ chính như sau:
– Lễ “Tắm Bà” (tương tự như lễ mộc dục ở miền Bắc): Được cử hành vào lúc 0 giờ ngày 24-04 âm lịch. Mở đầu lễ, 2 ngọn nến to được đốt sáng lên trong chánh điện. Ông lễ chánh bái nghi cùng với 2 vị bô lão, ban quản lý miếu niệm hương, dâng rượu và trà. Bức màn vải có viền ren lộng lẫy kéo ngang bệ thờ, che khuất khu vực đặt tượng, 9 cô gái trẻ được phân công trước bắt đầu vén màn tắm cho tượng Bà. Đầu tiên là cởi mũ, áo, khăn đai từ lớp ngoài vào trong để lộ toàn thân pho tượng. Những cô gái được phân công việc tắm Bà lần lượt nhúng từng chiếc khăn mới vào chậu nước thơm, vắt ráo rồi lau tượng nhiều lần. Sau đó, họ dùng nước hoa xịt khắp bức tượng rồi chọn bộ đồ mới đẹp nhất khoác lên bức tượng, thắt chặt đai, chít khăn, đội mão, gắn lại những ngọn đèn màu trang trí như cũ. Lễ tắm Bà thường kéo dài khoảng một giờ, sau đó bức màn ngăn được kéo lên để cho khách tự do chiêm bái, dâng hương, hoặc xin lộc Bà. Phần Lễ Tắm Bà kết thúc…Nước tắm cho Bà còn lại sẽ đem hoà trong 2 thùng nước lớn để phân phát cho du khách trẩy hội.
– Lễ Thỉnh sắc: cử hành vào khoảng 16h chiều ngày 25, một đoàn người gồm các bô lão trong làng quần áo chỉnh tề, tiến từ miếu Bà sang lăng Thoại Ngọc Hầu để thỉnh sắc (thật ra, đây là lễ rước bài vị, vì sắc đã không còn). Dẫn đầu có đội múa lân, các học trò lễ tay cầm cờ phướn đi hầu phía trước và sau chiếc kiệu sơn son thiếp vàng gọi là long đình. Đến điện thờ, ông chánh bái làm lễ niệm hương, rồi thỉnh bài vị đưa lên kiệu trở về miếu Bà. Ba chiếc bài vị mang tên Thoại Ngọc Hầu và tên bà vợ chánh Châu Thị Tế, bà vợ thứ Trương Thị Miệt được đặt trên bàn thờ ở chánh điện. Bài vị thứ tư mang tên Hội đồng, ghi công lao các quan quân đã theo Thoại Ngọc Hầu xưa kia, được đặt riêng ở bàn thờ phía trước.
– Lễ Túc yết: được tổ chức lúc 0 giờ đêm 25 rạng 26-04 âm lịch, gồm có hai phần: nghi thức cúng tế và phần xây chầu. Lễ vật dâng cúng gồm có: một con heo trắng, một đĩa huyết heo có kèm theo nhúm lông nhỏ. Một mâm trái cây, trầu cau, gạo, muối. Sau ba hồi chiêng, trống, nhạc lễ nổi lên, lễ dâng hương, dâng trà bắt đầu. Nghi thức cúng tế kết thúc bằng động tác của ông chánh tế đốt bản văn tế cùng giấy vàng bạc. Tiếp theo nghi thức cúng tế là phần xây chầu được tiến hành ở nhà võ ca. Sau phần cầu nguyện của ông Chánh bái, xin cho mưa thuận gió hoà, đất đai phì nhiêu, mùa màng bội thu, dân chúng khỏe mạnh, yên vui, các loài quỷ dữ bị tiêu diệt, lễ Xây chầu bắt đầu bằng ba hồi trống lệnh. Sau đó, chiêng trống rộ lên, chương trình hát bội bắt đầu.
– Lễ Chánh tế: được tổ chức vào tờ mờ sáng ngày 27, gần giống như nghi thức cúng Túc yết.
– Lễ Hồi sắc: cử hành vào khoảng 15h ngày 27-04, đoàn hành lễ sẽ rước bài vị Thoại Ngọc Hầu và nhị vị phu nhân từ miếu trở về Sơn Lăng. Kết thúc lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam.
Miếu Bà chúa Xứ là một trong những danh thắng của núi Lam được nhà nước xếp hạng. Nơi đây đã mang dấu ấn của cả một thời đại hào hùng, thời đại chống giặc ngoại xâm. Và ngay nay miếu Bà Chúa Xứ vẫn thật sự là điểm đến của du khách bốn phương, là nơi mà con người cầu mong về những điều thiêng liêng, tốt đẹp nhất.
Dù mọi người dân đồng bằng đều muốn đến viếng và ngắm tượng Bà Chúa Xứ, nhưng bà là ai, pho tượng của Bà có nguồn gốc từ đâu, không ai có thể trả lời chắc chắn. Câu chuyện về Bà Chúa Xứ mãi mãi là bí ẩn.
Dù chưa xác định được chính xác nguồn gốc của pho tượng cũng như lai lịch Bà Chúa Xứ núi Sam, nhưng các sử liệu đều nhìn nhận rằng pho tượng Bà Chúa Xứ đã ngự trị trên đỉnh núi Sam từ rất lâu, trước khi những lưu dân người Việt từ miền Trung đặt chân đến vùng đất này.
Phải chăng tượng Bà Chúa Xứ là sản phẩm của nền văn hóa Óc Eo thời vương quốc Phú Nam (thế kỷ I đến thế kỷ VII sau Công Nguyên), hay còn lùi xa hơn thế nữa?
Huyền sử của nước ta có câu chuyện về phò mã An Tiêm gắn liền với sự tích trái dưa hấu. Chàng phò mã “lắm tài nhiều tật” vì xúc phạm đến triều đình mà bị Vua Hùng Vương thứ 17 đày ra hoang đảo.
Trên hoang đảo không một bóng người, An Tiêm và vợ đã bằng sức mình sản xuất để tồn tại. Họ đã gây được giống dưa hấu rất ngon, ngọt từ mấy hạt dưa do chim trời thả xuống. Những quả dưa của An Tiêm được khắc dấu thả trôi ra biển…
Từ đó mà hòn đảo hoang của họ trở nên tấp nập ghe thuyền đến mua bán, hai vợ chồng đã từ đôi bàn tay trắng gây dựng nên sự nghiệp. Vua cha biết chuyện, đã tha thứ cho vợ chồng An Tiêm, từ đó giống dưa hấu này trở nên nổi tiếng khắp nơi, lưu truyền đến ngày nay.
Thật thú vị, khi cũng gần với thời điểm ra đời huyền sử An Tiêm (đời Hùng Vương thứ 17), ở vùng đất phương Nam xa xôi cũng xảy ra 1 câu chuyện gần giống với An Tiêm, đưa đến sự ra đời của vương quốc Phù Nam hùng mạnh.
Theo huyền sử của vương quốc Phù Nam, nguồn gốc hình thành vương quốc này bắt đầu từ chuyến du hành của 1 hoàng tử từ phương xa đến, có thể là Ấn Độ hoặc Ba Tư.
Vị hoàng tử tên là Hỗn Điền (Kaundinia) vì chán cảnh gò bó, khuôn thước trong triều nội mà bỏ hoàng thành, dẫn 1 đoàn tùy tùng cả trăm người lên thuyền lênh đênh trên đại dương, rong thuyền về hướng mặt trời mọc để thỏa chí tang bồng.
Chiếc thuyền của vị hoàng tử đi lạc tới một vùng đất lạ, có nhiều hòn đảo trồi lên mặt, nhận thấy đây là chỗ tốt, nên hoàng tử dừng thuyền lập lãnh thổ riêng cho mình. Để đánh dấu sự hiện diện của mình, vị hoàng tử đã cho đoàn tùy tùng đưa pho tượng đá đem theo trên thuyền đem đặt lên bờ, đó là tượng Bà Chúa Xứ và ngọn núi Sam sau này.
Thế nhưng, vị hoàng tử và đoàn tuy tùng không hề ngờ rằng, vùng đất mà họ vừa đặt chân lên và định lấy làm lãnh thổ riêng cho mình, là vùng đất thuộc chủ quyền của 1 nữ vương xinh đẹp tên là Liễu Điệp (Lưu Yi). Một cuộc chạm trán đã diễn ra giữa đoàn tùy tùng của vị hoàng tử và những quân lính của nữ vương Lưu Yi, trước khi hoàng tử được phép yết kiến nữ vương.
Ngay trong lần yết kiến đầu tiên, vị hoàng tử từ phương xa đã làm trái tim của nữ vương Lưu Yi xinh đẹp phải rung động. Bao nhiêu vàng ngọc, báu vật đem theo trên thuyền đều được hoàng tử lấy làm sính lễ cầu hôn nữ vương.
Kết quả của cuộc hôn nhân lãng mạn này là sự ra đời của vương quốc Phù Nam, đặt thủ đô tại Lò Gò (cách thị xã Châu Đốc ngày nay khoảng 30 km về phía Tây Nam).
Vương quốc Phù Nam đã phát triển rực rỡ sau đó, trở thành quốc gia cổ đại đầu tiên ở Đông Nam Á đất liền với địa bàn phát triển chính là vùng đồng bằng sông Cửu Long của nước ta ngày nay. Vào lúc cực thịnh, vương quốc Phù Nam đã kiểm soát về phía Đông đến tận vùng đất phía Nam Trung bộ thuộc Việt Nam ngày nay, về phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam của Thái Lan…
Phù Nam đã phát triển mạnh mẽ thương nghiệp, từ giữa thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ VI, vương quốc này khống chế hoạt động hàng hải ở Đông Nam Á, đem quân đi chinh phục hơn 10 vương quốc xung quanh, trong đó có cả vương quốc Chiêm Thành hùng mạnh.
Nhưng cũng chính đường lối coi nhẹ sản xuất, chỉ chú tâm mua bán và bành trướng lãnh thổ, đã tạo ra tình trạng phân hóa, chia rẻ và cát cứ, phân tán quyền lực, để rồi sau 13 đời vùa, vương quốc hùng mạnh Phù Nam đã yếu dần và suy vong vào thế kỷ thứ VII.
Bên cạnh giả thuyết cho rằng pho tượng Bà Chúa Xứ ngày nay là do vị hoàng tử Hỗn Điền chở bằng thuyền đến từ phương xa, cũng có giả thuyết cho rằng pho tượng chính là sản phẩm riêng của vương quốc Phù Nam với nền văn hóa Óc Eo nổi tiếng.
Văn hóa Óc Eo – Phù Nam được phát hiện từ cuộc khai vật đầu tiên của nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret tại gò Óc Eo (xã Vọng Khê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) vào năm 1944.
Với những gì Luois Malleret phát hiện, cùng với những kết quả khảo cổ của các đồng nghiệp Việt Nam sau đó, đã vẽ nên một cách sống động một nền văn hóa cổ từng tồn tại và phát triển rực rỡ ở đồng bằng sông Cửu Long từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII sau Công Nguyên.
Nền văn hóa Óc Eo – Phù Nam đã từng biết sử dụng các công nghệ luyện kim, nấu thủy tinh, kim hoàn, chạm trổ trên đá và kim loại quý, tạc tượng…
Các di tích kiến trúc còn lại của văn hóa Óc Eo – Phù Nam là những đền thờ và mộ táng với kỹ thuật xây nền và tường gạch dày đặc theo những bình đồ còn bí ẩn. Và một trong những sản phẩm của nền văn hóa Óc Eo còn lại chính là pho tượng Bà Chúa Xứ ngày nay.
Thế nhưng, các giả thuyết nói trên đã bị lung lay khi vào thập niên 1980, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra rằng tượng Bà Chúa Xứ được tạc bằng một loại đá (có tên là sa thạch) rất lạ, không tìm thấy ở vùng Bảy Núi (Thất Sơn) cũng như cả vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Điều đó cho thấy, không có khả năng pho tượng được tạc tại chỗ (như là sản phẩm của nền văn hóa Óc Eo – Phù Nam), mà phải được đem từ phương xa tới. Điều này có vẽ hợp với giả thuyết cho rằng hoàng tử Hỗn Điền đã chở pho tượng theo tàu từ biển vào.
Thế nhưng, cũng vào thập niên 1980, các nhà khảo cổ cũng đã phát hiện một bệ đá sa thạch trên lưng chừng núi Sam (cao khoảng 100 mét) vừa khít với tư thế ngồi của pho tượng. Điều đó cho thấy pho tượng Bà Chúa Xứ từng “ngự” trên núi Sam trước khi được chuyển xuống chân núi thờ trong miếu cho đến ngày nay.
Thế nhưng, bằng cách nào mà những người “cổ đại” thời ấy có thể chuyển pho tượng nặng gần 3 tấn lên đỉnh núi? Một câu hỏi không dễ trả lời. Vì vậy mà xuất hiện giả thuyết mới về nguồn gốc pho tượng, lùi xa thêm hàng ngàn năm.
Theo những nghiên cứu địa lý, phần lớn vùng đồng bằng sông Cửu Long mới được hình thành cách đây khoảng 8.000 năm. Do những biến đổi địa chất, mực nước biển đã hạ xuống vào cuối thời kỳ trầm tích Pleistocen, làm lộ ra vùng đồng bằng rộng lớn nằm 2 bên sông Mê Kông.
Thế nhưng, cho đến cách đây khoảng 5.500, mực nước biển dâng cao làm ngập hầu hết vùng đất này. Cho đến cách đây vào khoảng 5.000 năm, mực nước biển lại hạ thấp và ổn định cho tới ngày này, làm hình thành vùng đồng bằng sông Cửu Long màu mỡ.
Phải chăng, vào giai đoạn nước biển dâng cao ấy (cách đây khoảng 5.000 năm), núi Sam bị chìm một phần trong nước biển, chứ không cao như bây giờ. Và 1 vị hoàng tử nào đó ở phương xa đã ghé thuyền vào chân núi để đặt pho tượng nhằm đánh dấu sự hiện diện của mình. Về sau nước biển rút thấp, làm cho pho tượng nằm ở lưng chừng núi Sam.
Pho tượng cổ trên núi Sam
Truyền thuyết của người dân ở làng Vĩnh Tế kể rằng ngày xưa có 1một pho tượng đá lớn không ai biết từ đâu đến ngồi ngự trên lưng chừng núi Sam.
Người dân trong làng rất tin tưởng vào sự linh nghiệm của pho tượng. Họ thường xuyên đến đây đốt nhang để cầu nguyện cho cuộc sống trong làng được yên bình, không bị thú dữ tấn công, cho mưa thuận gió hòa, cho gia đình ấm êm, hạnh phúc…
Pho tượng đá trở thành chỗ dựa tinh thần của người dân ở cả một vùng rộng lớn chung quanh núi Sam. Một lần, có một cô gái trong làng “lên đồng”, đến bên pho tượng, tự xưng là Bà Chúa Xứ.
Cả làng kéo đến quỳ lạy pho tượng và cô gái “lên đồng”, từ đó mà trong tín ngưỡng dân gian đặt cho pho tượng ấy là Bà Chúa Xứ, mặc dù cho đến lúc ấy pho tượng bằng đá sa thạch này có hình dáng không thật rõ là nam hay nữ.
Cho đến cách đây khoảng 200 năm, lịch sử của pho tượng đã chuyển sang trang mới, khi tượng được chuyển từ lưng chừng núi xuống chân núi và được xây miếu thờ cúng.
Sự kiện trên gắn liền với công trình xây dựng 2 con kênh nổi tiếng nhất trong lịch sử khai khẩn đất Nam Bộ, đó là kênh Thoại Hà và kênh Vĩnh Tế, do Thoại Ngọc Hầu khởi xướng và chỉ huy thực hiện. Thoại Ngọc Hầu (1761 – 1829) tên thật là Nguyễn Văn Thoại, quê huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Vào cuối thời các Chúa Nguyễn, vì cuộc sống quá khó khăn, cha mẹ ông đã dắt díu đàn con rời quê hương vào làng Thới Bình, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long để khai khẩn đất hoang, vốn là trào lưu đang khá thịnh hành thời bấy giờ.
Lớn lên trên vùng đất mới khẩn hoang, Nguyễn Văn Thoại như bị máu “phiêu lưu” nhiễm vào người, đã tìm thầy học võ, cùng trai làng “trừ gian diệt bạo”, đánh đuổi thú dữ để bảo vệ cuộc sống yên bình cho người dân.
Năm 1777 ông đầu quân phò tá chúa Nguyễn Ánh và lập được nhiều chiến công, được phong chức “Khâm sai Thượng đạo Bình Tây tướng quân”, tước “Thoại Ngọc Hầu”. Dưới thời vua Gia Long, ông được triều đình cử trấn nhận vùng Tây Nam Bộ.
Chính ông đã “tham mưu” lên triều đình và được chấp nhận cho thực hiện những công trình giao thông, thủy lợi vĩ đại, góp phần làm thay đổi vùng đất Nam Bộ.
Đó là 2 công trình kênh Thoại Hà và kênh Vĩnh Tế. Kênh Thoại Hà được khởi công năm 1818, gồm hàng vạn dân công người tại chỗ và người từ xứ Quảng được chiêu mộ đưa vào. Đây là tuyến kênh thoát lũ đầu tiên ở đồng bằng sông Cửu Long, giúp thoát nước lũ từ sông Hậu ra biển Tây và xả phèn cải tạo đất, đồng thời trở thành tuyến đường giao thông quan trọng trong giai đoạn chủ yếu đi lại bằng đường thủy.
Đến năm 1820, Thoại Ngọc Hầu lại cho thi công công trình thủy lợi – giao thông lớn gấp nhiều lần, đó là con kênh dài gần 100km, rộng 50m, nối Châu Đốc với Hà Tiên.
Công trình vĩ đại này do chính Thoại Ngọc Hầu thiết kế, huy động đến 8 vạn dân công gồm người dân khắp đồng bằng và từ miền Trung vào, làm ròng rã trong 5 năm (1820 – 1824) mới hoàn thành. Con kênh này đã giúp thoát lũ, xả phèn, tưới tiêu cho hàng vạn hecta ruộng, đồng thời trở thành tuyến giao thông quan trọng nhất vùng.
Cho đến ngày nay, mặc dù đã có hàng trăm công trình thủy lợi – giao thông lớn được xây dựng ở đồng bằng sông Cửu Long, nhưng kênh Vĩnh Tế vẫn là vĩ đại hơn cả, xét cả về quy mô, tầm vóc và ý nghĩa lịch sử đối với vùng đất Nam bộ.
Vua Minh Mạng rất hài lòng về công trình thủy lợi vĩ đại này, nên đã ban cho con kênh mang tên của người vợ cả của Thoại Ngọc Hầu là Châu Thị Tế, con kênh ngay khi ra đời đã có tên là kênh Vĩnh Tế.
Vua Minh Mạng còn cho đúc cửu đỉnh (hiện còn lưu giữ ở Huế) làm quốc bảo, trên ấy có khắc hình kênh Vĩnh Tế. Thoại Ngọc Hầu mất năm 1829, thọ 68 tuổi, được triều đình cho an táng tại chân núi Sam, nơi ông đã gắn bó lâu dài nhất là làm nên sự nghiệp của mình.
Mộ của ông cách miếu Bà Chúa Xứ chừng 100 mét, lưng dựa vào núi, nên nhân dân gọi là “Sơn Lăng”, cùng với mộ của bà Châu Thị Tế và người vợ kế, hai bên là hai hàng mộ khuyết danh của những người tùy tùng thân cận với ông.
Sử sách ghi rằng, khi Thoại Ngọc Hầu khởi sự đào còn kênh Vĩnh Tế với hơn 8 vạn dân công, ban đầu cũng gặp nhiều trục trặc, nhất là những dân công từ miền Trung xa xôi vào không quen với thổ nhưỡng vùng đất lạ, làm phát sinh bệnh chết nhiều người.
Bà Châu Thị Tế đã noi theo dân làng, hàng ngày leo lên núi, đến bên tượng Bà Chúa Xứ đốt nhang khấn vái cho chồng gặp nhiều may mắn, cho công trình đào kênh được thuận lợi.
Không biết có phải nhờ những lời khấn vái của bà Châu Thị Tế hay do ông Thoại Ngọc Hầu chồng bà đã quen dần công việc, người dân công phương xa đã chịu đựng được khí hậu nơi đây, mà công trình đào kênh tiến triển thuận lợi hơn nhiều, dân công cũng không còn chết vì bệnh như ban đầu. Năm 1824, công trình hoàn tất trong niềm vui tột độ của người dân đồng bằng và hơn 8 vạn dân công.
Để tỏ lòng biết ơn Bà Chúa Xứ đã phù hộ giúp công trình đào kênh Vĩnh Tế được thuận lợi, suôn sẻ, bà Châu Thị Tế đã cúng và “thỉnh” tượng Bà xuống chân núi để làm miếu thờ cúng cho tươm tất. Thế nhưng, hàng trăm quân lính vẫn không có cách nào làm cho pho tượng nặng khoảng 3 tấn này lay chuyển. Một bô lão trong làng nằm mộng thấy Bà mách bảo phải nhờ 9 cô gái đồng trinh mới khiêng được pho tượng.
Vậy là chỉ với 9 cô gái tay yếu chân mềm (tất cả đều đồng trinh), pho tượng đá to đã được đưa xuống núi một cách gọn nhẹ.
Một hướng giải thích khác cho rằng, chuyện “9 cô gái đồng trinh” chỉ do người đời thêu dệt thêm để cho bức tượng Bà Chúa Xứ thêm huyền bí, chứ kỳ thực là quân lính đã đưa pho tượng xuống núi theo cái cách cho lăn chứ không phải khiêng (vì làm sao khiêng nổi). Vì vậy mà pho tượng ngày nay bị gãy mất 1 tay, có thể do bị cấn gãy khi lăn xuống núi.
Ban đầu, khoảng năm 1824, miếu Bà Chúa Xứ được làm bằng vật liệu đơn giản, chủ yếu là gỗ. Đến năm 1870, ngôi miếu được xây dựng lại bằng gạch hồ ô dước, mái lợp ngói âm dương.
Gần 100 năm sau, ngôi miếu bị xuống cấp nặng, nên đến năm 1962, ngôi miếu được dân làng sửa chữa lại khang trang, bắt đầu thu hút nhiều người đến viếng. Ba năm sau, nhờ sự đóng góp của các mạnh thường quân, ngôi miếu được xây rộng ra, có nhà khách, xây hàng rào.
Đến năm 1972, ngôi miếu được làm lại phần lớn, công trình kéo dài đến năm 1976, và giữ nguyên diện mạo cho tới ngày nay. Kiến trúc của miếu Bà Chúa Xứ có hình chữ “quốc”, cách điệu bông sen nở, mái lợp ngói ống màu xanh.
Cũng kể từ năm 1972, pho tượng không còn ở dạng “thô” như đã từng, mà được “trang điểm” màu sắc, trông như một người đàn bà uy nghiêm mà phúc hậu.
Trong suốt mấy chục năm chiến tranh, ngôi miếu luôn được dân làng bảo vệ an toàn, bom đạn như cũng “tránh” ngôi miếu và tượng Bà, không bị tàn phá như những vùng lân cận.
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ
Theo sử sách ghi lại, từ khi tượng Bà được 9 cô gái đồng trinh khiêng xuống núi và người dân làm thiếu thờ phụng, hàng năm dân làng đều tổ chức lễ cúng bà vào tháng Tư âm lịch, dần dà trở thành lễ hội dân gian.
Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam từ là hoạt động tự phát trong dân gian đã trở thành lễ hội cấp quốc gia từ năm 2001. Đây là một trong những lễ hội kéo dài nhất cả nước, bắt đầu từ tháng Giêng cho đến hết tháng Tư âm lịch, kéo dài gần 4 tháng.
Vào mùa lễ hội, hàng triệu người từ khắp các vùng miền cả nước, nhiều nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long, TP.HCM, miền Đông Nam Bộ về đây viếng Bà.
Chính những bí ẩn về pho tượng Bà Chúa Xứ, những mẩu chuyện mang tính huyền bí, linh thiêng về bà được người dân hết đời này qua đời khác truyền tụng, đã ăn sâu vào tâm thức của hàng triệu người dân đồng bằng và các vùng lân cận, làm cho lễ hội Vía Bà và khu di tích núi Sam luôn có sức hấp dẫn nhiều người.
Họ đến đây viếng Bà quanh năm, nhưng nhiều nhất là vào mùa Vía Bà, đặc biệt đông là vào cuối tháng Tư âm lịch, khi lễ hội lên đến cao trào và chuẩn bị kết thúc.
Đó là lúc diễn ra nghi thức rước bà từ trên núi Sam về miếu, nghi thức quan trọng nhất của lễ hội, diễn ra theo hình thức sân khấu hóa rất hoành tráng. Người dân nào cũng muốn tận mắt chứng kiến, thậm chí tham dự vào lễ rước Bà.
Vào đúng 16 giờ ngày 22/4 âm lịch hàng năm, khi các nẻo đường từ thị xã Châu Đốc đến núi Sam đã chật kín người với hàng trăm ngàn người tham dự, cuộc hành trình rước Bà bắt đầu.
Mấy chục đoàn lân – sư – rồng từ khắp các tỉnh đồng bằng và TP.HCM đã tề tựu sẵn trước lăng. Hàng trăm bô lão, nghệ sĩ được ban tổ chức phân công thủ vai ông Thoại Ngọc Hầu, bà Châu Thị Tế, các trưởng làng, bô lão… thời xưa để lên núi rước Bà.
Đoàn người chưa vội “thượng sơn”, mà tập trung đến nhà bia ghi danh các anh hùng liệt sĩ, cũng là nơi phát tích làng Vĩnh Tế xưa, trước khi bắt đầu các nghi thức rước tượng Bà. Một bô lão đọc lời khấn: “Nay chúng con hội tụ về đây xin thành tâm khấn bái: Trên có trời cao, dưới có các anh hùng liệt sĩ đồng chứng giám.
Chúng con là các bô lão phường Núi Sam, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang, xin chân thành khấn nguyện: Non nước thái bình, an cư lạc nghiệp…”.
Rồi cả đoàn người hô to: “Khai thủy, đăng sơn, thỉnh Thánh mẫu hồi lai”. Các đoàn lân sư rồng khai múa, nhạc lễ nổi lên vang vọng cả vùng, đoàn người tiến lên đỉnh núi Sam nơi bà “ngự” năm xưa.
Tại nơi bà từng ngồi hàng ngàn năm ngày trước, giờ vẫn còn một phiến đá trùng khớp với thế ngồi của tượng Bà.
Đoàn rước tượng phục hiện lại cảnh thỉnh tượng Bà cách đây gần 200 năm. Một bô lão đến bên tượng quỳ khấn xin thỉnh tượng xuống chân núi, sau đó các chàng trai lực lưỡng trong làng kề vai vào khiêng tượng đá.
Thế nhưng tượng đá vẫn không hề nhúch nhích. Người bô lão tiếp tục khấn, sau đó 9 cô gái đồng trinh vào thế chỗ các chàng trai, tức thì tượng đá được nhấc lên nhẹ nhàng.
Tượng đá được 9 cô gái khiêng đi trước, cả ngàn người rồng rắn theo sau, các đoàn lân – sư – rồng lại múa, nhạc lễ vang động cả khu vực núi Sam… Lễ rước tượng Bà kết thúc vào khoảng 20 giờ, khi 9 cô gái đã đưa tượng Bà “hạ sơn” và đưa vào an vị trong miếu.
Qua thời gian, lễ Vía Bà Chúa Xứ và nghi thức rước tượng Bà ngày càng ít yếu tố mê tín, nhẹ về tâm linh, mà trở thành một lễ hội văn hóa cộng đồng. Lễ hội ngày càng hiện đại, nhưng vẫn đậm nét văn hóa dân gian, qua đó giới thiệu và sự tích Bà Chúa Xứ, để người dân tỏ lòng biết ơn những vị công thần đã có công khai phá vùng đất này.
Trong những năm qua, các hãng du lịch lữ hành ở đồng bằng sông Cửu Long, TP.HCM đã tập trung khai thác khu di tích Bà Chúa Xứ, đặc biệt là vào mùa lễ hội đầu năm. Nhờ đó, núi Sam cùng với sự tích Bà Chúa Xứ đã và đang góp phần đáng kể phát triển du lịch tỉnh An Giang nói riêng, cả đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
Comment