nguoi-me-bat-hanh-co-nguoi-con-lan-luot-phat-dien
Người mẹ bất hạnh có 10 người con lần lượt phát điên
- bởi map --
- 08/04/2015
Thật khó có sự sợ hãi nào khủng khiếp hơn, khi một người mẹ dứt ruột đẻ tới 10 đứa con, con trai đẹp như tượng, con gái đẹp như hoa, đều bỗng nhiên lần lượt điên khùng.
Nhiều thầy địa lý, thầy cúng, thầy phong thủy, thậm chí cả thiền sư có tiếng tìm đến ngôi nhà này để trấn yểm, rồi phải bỏ của chạy lấy người vì lực bất tòng tâm. Đi qua ngôi nhà đó, hàng xóm ai cũng kinh hãi rảo bước thật nhanh.
Đất ấy toàn ma với quỷ(?!)
Chuyện về gia đình người đàn bà này thì người dân ở cả con đường Đà Nẵng (quận Ngô Quyền, Hải Phòng) đều biết. Tôi đến đầu ngõ 239, hỏi nhà bà Nguyễn Thị Nở, chị bán hàng xáo đầu ngõ chạy ra hỏi: “Chú là nhà hảo tâm đến cho tiền bà Nở hả? Gia cảnh nhà đó đến là khổ. Nhưng chị khuyên chú thật lòng nhé, vào đó thì đeo bùa vào mà phòng thân, ma nó nhập, nó theo chú về thì khổ”. Theo lối chỉ, tôi đi mãi, ngoắt ngoéo, tìm chẳng ra đường. Thấy có người lạ mặt loay hoay thì một bà mở cổng chạy ra chỉ giúp. Bà cũng dặn: “Hàng xóm chúng tôi cũng thương gia đình ấy, nhưng chẳng ai dám vào đâu. Sợ lắm. Đất ấy toàn ma với quỷ. Thầy địa lý còn bảo người TQ yểm xương cốt người chết vào đấy, nên ai vào cũng phát khùng, phát điên”.
Căn nhà rộng chừng 50-60m2 ở cuối ngách, cũ nát, lúp xúp, tường lở loang lổ, cổng rả xộc xệch, thật khác thường so với những ngôi nhà khang trang, cao tầng xung quanh. Bà Nở mở rộng cửa đón khách. Cô con gái út tên Bích nằm còng queo quấn chăn trong một góc. Lạnh quá, không có quần áo ấm, nên hai mẹ con cứ ru rú trong nhà. Bình thường bà lang thang xin ăn, nhưng mấy hôm nay rét quá, lại được một cha xứ cho 10kg gạo mỗi tháng, nên bà ở nhà, thôi thì ăn dè sẻn cũng đủ sống qua ngày. Củi đun nhặt ở dọc ở hai bờ sông Cấm, hàng xóm xung quanh cũng tốt bụng, ai có giường tủ, bàn ghế mục nát, cũng để dành cho. Mấy cái chiếu mới trải tạm xuống nền nhà để mấy mẹ con ngủ cũng là của nhà người chết bố thí cho làm phúc. Bà Nở ngồi thu lu ở góc nhà, đôi mắt đục buồn gần 70 tuổi nhìn vào bốn bức vách. Tôi hỏi chuyện bà Nở, cô con gái thi thoảng lại thò đầu khỏi chăn trả lời thay mẹ. Nhưng cũng chẳng rõ cô nói cái gì.
Bà Nguyễn Thị Nở sinh năm 1945, đúng vào năm cả nước chết đói. Quê bà ở xã Cộng Hiền (Vĩnh Bảo, Hải Phòng), bố mẹ là bần nông. Nghèo đói, rách nát. Người mẹ sinh tới 6 người con, nhưng cả 6 người con cứ chập chững biết đi thì lăn ra chết. Bà Nở là người con thứ 7, vừa được sinh ra thì bố bà cũng lìa trần. Một tháng sau lại thêm mẹ bà mất vì máy bay địch bắn. Thời điểm bé Nở ra đời, nhà không có gì ăn, cả làng chết đói, thế mà cô bé Nở vẫn sống. Dân làng bảo Nở là “người giời”, không có gì ăn suốt một tuần mà không chết, cứ khóc oe oe. Bà Nở bảo, đời bà là vậy, sinh ra đã đói, đã khổ rồi. Và có lẽ còn khổ đến kiếp sau.
Hằng ngày, Nở giúp mẹ nuôi làm công việc quét dọn trong nhà máy ximăng, rồi đun nước sôi bán kiếm thêm. Tại đây, bà đã quen và lấy ông Phạm Văn Phong, là công nhân bốc vác cùng nhà máy. Cuộc sống tuy khó khăn, chật vật vì đẻ nhiều, nhưng đầm ấm, vui vẻ. Tuy nhiên, khi chuyển về ngôi nhà này, thì tai họa liên tiếp giáng xuống gia đình. Đầu tiên là 3 người con gái đẹp như tranh vẽ của ông bà, là Phạm Thị Thái (SN 1965), Phạm Thị Dung (SN 1971) và Phạm Thị Cúc (SN 1973) đến tuổi 20 chuẩn bị lấy chồng, thì đều tự dưng lơ đơ, man mát. Dù chưa tâm thần hẳn, nhưng thi thoảng có biểu hiện khác người. Rồi bỗng dưng 3 cô con gái này lần lượt mất tích. Người thì bảo bị lừa bán sang Trung Quốc, người thì bảo bị tâm thần bỏ đi lang thang, rồi chết đường chết chợ, giờ không biết ở phương trời nào, bao nhiêu năm rồi, không thấy tin tức gì cả.
Trong số 7 cô con gái, thì có hai cô lấy được tấm chồng, đó là Phạm Thị Lan (SN 1968) và Phạm Thị Tâm (SN 1969). 18 tuổi, chị Lan đã có biểu hiện đơ đơ của người mắc chứng tâm thần. Chồng Lan lại là tay cờ bạc khét tiếng, ra tù vào tội không biết bao nhiêu lần. Hồi đẻ đứa con đầu, ông chồng vẫn đang ngồi tù. Đau buồn nên bệnh tâm thần của Lan càng nặng hơn. Khi cậu con còn đang bú mẹ, thi thoảng Lan lại cởi trần cởi truồng bế con trốn nhà đi lang thang giữa mùa đông giá rét. Khi sinh đứa con thứ hai được 4 tháng tuổi, thì chị… điên hẳn, đập phá tanh bành nhà cửa, gia đình đã phải đưa chị vào trại tâm thần ở Vĩnh Bảo. Từ khi vào trại, Lan không tỉnh táo lại được nữa. Có lẽ Lan phải chung thân với trại tâm thần. Còn chị Tâm là con thứ 4, hồi chưa lấy chồng cũng hơi chập chập, thi thoảng lại bỏ đi, nhưng đang đi tự dưng sực tỉnh, tự hỏi đường về nhà. Người chồng đầu tiên của chị là trai Hà Nội hẳn hoi. Tuy nhiên, anh này lại là con nghiện nặng, cứ đói thuốc lại nhè vợ ra đánh. Chồng chết, chị đi bước nữa với người đàn ông ở Bắc Giang. Tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, chị lại lấy nhầm ông nghiện. Ở với anh này được vài năm, sống chả khác gì địa ngục, anh ta sốc thuốc chết chị mới nhẹ nợ. Người chồng thứ 3 của chị không nghiện ngập, nhưng lại có tính trăng hoa. Mấy năm trước anh ta bỏ nhà theo gái, bỏ mặc mẹ con chị Tâm. Mới ngoài 40 tuổi, chị Tâm đã qua 3 đời chồng, đẻ 6 lần, nhưng chết 2 con, chỉ còn 4. Tuy nhiên, một cậu con của chị học bố, nghiện nặng, lại bị AIDS, đang nằm chờ chết. Một cô con gái mới 15 tuổi đã theo giai, rồi mang bầu, phải giấu giếm sinh con. Hiện chị Tâm đi làm phu hồ, xách vữa cùng đội thợ để nuôi 2 đứa con đang tuổi ăn tuổi học và một ông con nằm chờ chết.
Khi người con điên nặng nhất được đưa vào trại, thì vợ chồng bà Nở đỡ vất vả hơn. Vợ chồng bà cùng hai cậu con trai là Phạm Văn Đức (sinh năm 1978), Phạm Văn Hậu (sinh năm 1979) và cô út Phạm Thị Bích (sinh năm 1983) cùng mưu sinh kiếm sống. Thời điểm cách đây hơn 10 năm, 3 người con út này của bà Nở vẫn còn bình thường như bao thanh niên khác, cũng biết làm thuê làm mướn kiếm sống. Tai họa lại ập đến. Bà Nở nhớ lại: “Hôm đó, tôi đang nấu nướng dưới bếp thì cái Hoa (Phạm Thị Hoa – SN 1976) hét toáng lên: Bố chết rồi, bố chết rồi. Tôi chạy lên, thì thấy ông ấy ngừng thở, sùi bọt mép, mắt trợn ngược. Tôi vuốt mắt cho ông ấy bảo: Ông sống khôn chết thiêng, phù hộ cho mấy đứa còn lại không bị điên khùng nữa, để tôi đỡ vất vả. Trước đó, cái Hoa vẫn bình thường, đi bán hoa quả kiếm sống. Nhưng nó chứng kiến bố chết, nó khóc lóc, hét toáng lên, rồi mất trí luôn chú ạ. Sau đó nó nằm bẹp trong nhà, không ăn không uống gì cả, người chỉ còn bộ xương. Lúc tỉnh dậy, ăn được, thì suốt ngày hò hét, chửi bới. Nó ở nhà 3 năm thì tôi gửi vào trại Vĩnh Bảo. Đến giờ chưa có ngày nào nó tỉnh táo”.
Bà Nở ngước nhìn bàn thờ lạnh lẽo khói hương. Trên ấy có tấm ảnh một chàng trai đẹp ngời ngời. Đó là Phạm Văn Đức – người con thứ 8 mới chết được 3 năm nay. Theo bà Nở, Đức là đứa con khôn lanh, bình thường nhất của bà, là niềm hy vọng của bà cũng như cả gia đình lúc bà về già. Thế mà… Hồi đang học phổ thông trung học, Đức đi bơm xe kiếm tiền phụ giúp gia đình. Chẳng rõ mâu thuẫn thế nào, mấy thanh niên đầu gấu cầm cái bơm ném xuống sông Hạ Lý. Tiếc của, Đức nhảy xuống sông mò bơm. Một thằng đứng ở trên bờ cầm hòn đá to bằng quả bưởi ném trúng đầu Đức. Đức bất tỉnh trong bệnh viện mất mấy ngày, vết rách phải khâu tới 8 mũi. Bà Nở tìm đến gia đình kia hòng bắt đền, nhưng gia cảnh cũng nghèo chẳng kém gì nhà bà. Sau khi ra viện, Đức suốt ngày kêu đau đầu, chóng mặt, không đi học được nữa. Thi thoảng Đức lại lăn quay giãy đành đạch, sùi bọt mép. Càng ngày Đức càng gầy còm, xanh xao. Đức mất trí, rồi điên khùng nặng, phải đưa vào trại tâm thần. Vào trại, có lúc Đức uống cạn cả chai nước lau nhà vệ sinh khiến viêm ruột nặng, chữa mãi không khỏi. Có lúc lên cơn, đau đớn, Đức mài mẩu sắt rạch nát cả mặt mũi, cơ thể. Và, trong một lần tỉnh táo nhất, Đức cởi áo, xoắn thành sợi thừng, vắt lên cửa sổ thắt cổ chết. Trại gọi bà Nở đến nhận xác con về chôn, nhưng bà nuốt nước mắt bảo: “Nhà không có gì bán được để mua quan tài, cũng chẳng có đất mà chôn. Các bác thương tình thì mai táng cho cháu nó; đời này, kiếp này, tôi mãi đội ơn các bác”. Trại mua tấm ván, rồi cho xe bò chở xác Đức ra nghĩa địa chôn. Hôm đó, bà Nở cũng đến xem họ chôn con mình, chẳng có kèn trống, chẳng có gì làm ma cả. Nhưng đến nay bà Nở cũng mới chỉ có đôi lần đi viếng được mộ con, đó là hôm Đức được chôn và lần giỗ đầu. Giờ khu nghĩa địa hoang cỏ mọc um tùm, bà cũng không nhớ nổi con mình nằm ở chỗ nào nữa.
Đành sống khổ cho hết kiếp này
Sau khi người con thứ 8 treo cổ tự tử trong trại tâm thần, thì đến lượt cậu con trai thứ 9 là Phạm Văn Hậu nổi điên. Đức thì bị đám côn đồ ném đá vào đầu, còn Hậu bị bọn cướp đánh vỡ đầu. Hồi đó, Hậu vào TPHCM làm thuê. Cuối năm, về quê ăn tết, đang ra bến xe thì bị cướp sạch, lại đánh trúng đầu. Người dân đưa Hậu vào viện, nhưng không có tiền, không có người thân thích, điều trị không tốt, nên bị nhiễm trùng, vết thương lở loét, bốc mùi. Về nhà, Hậu kêu đau đầu, rồi nổi cơn điên. Một lần, cơn điên lên đỉnh điểm, Hậu đập phá nhà cửa tanh bành, không ai ngăn nổi. Đập phá chán thì Hậu phóng hỏa đốt nhà. Đúng lúc đó, cô con gái út Phạm Thị Bích – vốn đang tỉnh táo – cũng đột nhiên nổi điên, reo hò cổ vũ hành động đốt nhà của ông anh trai. Bữa đó công an đến bắt Hậu nhốt ở đồn, rồi đưa vào trại tâm thần. Ở một thời gian, được điều trị tích cực, nên Hậu dần tỉnh táo. Thời gian sau, Hậu được về. Hậu tìm vào TPHCM làm thuê làm mướn, nghe đâu lúc làm ở nhà máy gỗ, lúc làm hàn xì. Hậu đi biền biệt mấy năm nay, không thấy tin tức gì về cho mẹ.
TS Vũ Thế Khanh – TGĐ Liên hiệp UIA: “Tôi không tin có ma quỷ trong ngôi nhà đó. Ngay cả các thầy bói, thầy cúng, thầy pháp đến xem đất nhà bà Nở, mỗi người phán một kiểu. Người bảo do kiếp trước gây tội ác, người bảo do hồn ma người TQ, người bảo có vong, người bảo không có vong hồn gì… Tôi tin rằng, căn bệnh tâm thần của 10 người con nhà bà Nở là bệnh lý di truyền. Ngoài ra, do áp lực đồn đại ghê gớm quá khiến những người sinh sống ở đó khiếp sợ, bị ảnh hưởng thần kinh, dẫn đến tâm thần. Điều cần thiết là ổn định tâm lý những người trong gia đình đó và đặc biệt là phải điều trị cho họ bằng thuốc men do bác sĩ chuyên khoa chỉ định”.
Bà Nở đau xót kể: “Thượng tọa T đã tiên đoán, cái hạn lớn của gia đình tôi không hết được, chồng tôi sẽ chết, rồi đám con của tôi cũng sẽ không đứa nào được bình thường. Mọi chuyện xảy ra đúng như vậy, không sai tí nào. Ông Phong thì tai biến chết, mấy đứa con đang bình thường cứ lần lượt phát điên. Hai đứa con cuối cùng của tôi, là thằng Hậu và cái Bích, đang bình thường, cũng trở nên điên khùng nốt. Thế là tôi đã mất tất cả 10 đứa con”.
Chúng tôi đang trò chuyện về Hậu thì cô con gái út tên Bích của bà Nở thò đầu khỏi chăn xen vào kể chuyện. Bích kể: “Hôm nọ em đi xem bói, thầy bói bảo em có duyên với một anh già từ kiếp trước. Anh già người âm này cứ ở trong người em. Thầy bói bảo em phải cắt tiền duyên, bỏ cái duyên ấy đi thì mới lấy được chồng, nhưng mà bỏ cái duyên ấy thì lại mất hết lộc. Giờ phải làm sao anh nhỉ?”. Tôi hỏi Bích: “Thế em có người yêu chưa?”. Bích bảo: “Em yêu hai thằng rồi, nhưng em toàn bỏ thôi. Yêu một tháng thì bỏ. Chúng nó không nuôi được em. Không kiếm được mấy triệu cho em mua thuốc uống…”. Bích đang nói thì bà Nở chen vào: “Cứ nói huyên thuyên. Thằng nào thèm lấy đứa thần kinh để mà lại đẻ ra con cái dở hơi”. Theo bà Nở, Bích được bệnh viện tâm thần xác nhận bị tâm thần phân liệt, nhưng uống thuốc đều đặn thì tỉnh táo lại, đỡ điên hơn. Hằng tháng, Bích vẫn tự ra phường lấy thuốc. Mỗi tháng uống 100 viên, không uống thuốc thì không ngủ được. Bà Nở kể: “Lâu nay Bích vẫn đi bán nước ở vỉa hè, kiếm được vài đồng bạc lẻ, nhưng mấy hôm nay trời lạnh, đầu óc nó chập chập, nên cứ rúc vào chăn nằm, không đi bán hàng nữa. Nó mà điên hẳn thì tôi chẳng còn thiết sống trên đời này nữa”.
Để có miếng ăn, bà Nở thường dậy từ sáng sớm, ra vùng ngoại thành mua rau, gánh vào thành phố bán. Đi từ sáng đến đêm, kiếm được một hai chục ngàn. Đồ ăn của bà và các con nhiều khi là cả cơm thừa, canh cặn ở các nhà hàng, quán xá trong khu vực. Mấy năm nay già cả, vất vả nhiều quá, nên sinh lắm bệnh tật, chân tay thường xuyên co rút, không thức khuya dậy sớm được, nên bà không đi bán rau được nữa. Có lần, quẫn quá, lúc đi qua cầu Bính, bà toan nhảy xuống sông. Nhưng dường như có sức mạnh vô hình ngăn bà lại. Bà chết rồi, không biết ai nuôi đàn con điên dở? Cũng mấy năm trước, khi đứa con cuối cùng phát điên, quẫn quá, bà uống thuốc chuột. Tuy nhiên, hàng xóm đã kịp thời đưa bà đi bệnh viện rửa ruột. Bà bảo: “Sinh ra vào năm 1945, đói rạc cả tuần không chết, rồi về già, tự tử cũng vẫn không chết. Có lẽ các vị sư nói đúng, kiếp trước tôi nặng nợ nhân gian nhiều quá nên kiếp này phải trả nợ. Đất này vốn có ma quỷ đã sống ở đây nhiều đời. Thôi, tôi đành sống cho nốt kiếp khổ này để trả nợ!”.
Cũng may cho bà, mấy năm trước, các lãnh đạo phường Cầu Tre thương xót, giúp đỡ làm thủ tục trợ cấp cho gia đình. Hiện mỗi tháng gia đình bà được hỗ trợ mấy trăm ngàn. Mấy người con ở trại thì được Nhà nước nuôi dưỡng miễn phí. Hiện tại, bà Nở chỉ biết trông chờ vào số tiền trợ cấp này. Chẳng bao giờ bà dám tiêu pha đồng nào mà tích cóp lại, để phòng khi con lên cơn điên còn có tiền mua thuốc.
Khi tôi ngồi trò chuyện với bà, một số người hàng xóm biết, tò mò kéo sang. Tuy nhiên, họ chỉ đứng ngoài cổng dòm ngó, thi thoảng nói vọng vào vài câu, rồi lại đi mất. Chiếc cổng xộc xệch nhà bà mở toang, nhưng không thấy ai dám thò một chân vào. Người dân trong vùng sợ ngôi nhà này đến nỗi, giá trị mảnh đất vuông vắn, rộng 60m2 của bà, lẽ ra có giá ngót bạc tỉ, mà chỉ được trả có… 5 triệu đồng. Người mua bảo vì nhà có ma nên chỉ trả như thế! Sao trên đời lại có người đang tâm thế nhỉ?
Để làm rõ những bí ẩn trong ngôi nhà “ma ám” ở Hải Phòng, chúng tôi đã mời 2 nhà phong thủy ở Trung tâm Lý học Đông Phương xuống Hải Phòng. Hai nhà phong thủy của Trung tâm Lý học Đông Phương sau khi trao tiền, quà cho gia đình bà Nở, đã tiến hành đo đạc, vẽ lại phong thủy mảnh đất, ngôi nhà, sử dụng con lắc cùng các thiết bị đo đạc để xác định tia đất. Hai nhà phong thủy xác định chỗ giường nằm trong nhà bà Nở có tia đất độc hại. Tuy nhiên, xử lý ngôi nhà này như thế nào thì hai nhà phong thủy còn phải báo cáo lãnh đạo Trung tâm Lý học Đông Phương.
Theo Phong Nguyệt
Lao động
Comment