Chúng ta đã biết Lord Kelvin coi học thuyết Darwin chỉ là một giả thuyết thay vì một lý thuyết thực sự. Dưới ánh sáng của khoa học lịch sử hiện đại, chúng ta có thể nhận định mạnh hơn rằng học thuyết Darwin chỉ là một hệ tư tưởng ngụy khoa học, có ảnh hưởng ma quỷ đối với xã hội loài người: chủ nghĩa quốc xã, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, và sự xuống cấp về đạo đức. Các nhà tiến hóa cố che đậy những sự thật đó nhưng không ngăn được lịch sử tố cáo chúng.
Quý độc giả lưu ý:Loạt bài về thuyết tiến hóa trên Đại Kỷ Nguyên được phân thành 2 mục chính sau:
Quý độc giả có thể bookmark, ghi lại đường link hai mục trên để tiện theo dõi loạt bài này một cách có hệ thống. Các bài mới sẽ được thêm vào hai mục trên. Trân trọng thông báo. |
Khi thấy học thuyết Darwin bị kết tội như kẻ lát đường cho chủ nghĩa quốc xã Đức trong thế kỷ 20 tiến hành những cuộc thanh lọc chủng tộc, có người dẫy nẩy lên phản ứng: kết tội như thế có khác gì kết tội Einstein phải chịu trách nhiệm về thảm họa bom nguyên tử?
Nhưng hình như không ai kết tội Einstein, trong khi rất nhiều học giả, nhà sử học, nhà đạo đức học kết tội học thuyết Darwin tạo ra cơ sở lý luận cho hệ tư tưởng của chủ nghĩa quốc xã Đức, góp phần tích cực phá hủy nền tảng đạo đức của xã hội Tây Phương,…Khi thấy học thuyết Darwin bị kết tội như kẻ lát đường cho chủ nghĩa quốc xã Đức trong thế kỷ 20 tiến hành những cuộc thanh lọc chủng tộc, có người dẫy nẩy lên phản ứng: kết tội như thế có khác gì kết tội Einstein phải chịu trách nhiệm về thảm họa bom nguyên tử?
Mỉa mai thay, trong sự kết tội ấy thuyết TIẾN HÓA trở thành một động lực thúc đẩy sự THOÁI HÓA, góp phần chứng minh Quy luật Tàn úa (The Law of Entropy), tức Định luật 2 của Nhiệt Động lực học do Lord Kelvin khám phá, dường như cũng đúng trong xã hội loài người. Quá trình thoái hóa và tàn úa này đã được Richard Weikart, giáo sư khoa học lịch sử tại Đại học Tiểu bang California, trình bày trong tác phẩm nổi tiếng: “From Darwin to Hitler” (Từ Darwin tới Hitler). Giới tiến hóa không thể che giấu cuốn sách này, vì nó quá nổi tiếng. Vì thế họ buộc lòng phải giới thiệu nó kèm theo những lời phê phán nó, bóp méo nó. Đó là cách xử thế của những con đà điểu rúc đầu xuống cát.
Trong câu chuyện hôm nay, tôi muốn giới thiệu một luận văn khác của Richard Weikart: “The Role of Darwinism in Nazi Racial Thought” (Vai trò của học thuyết Darwin trong hệ tư tưởng về chủng tộc của chủ nghĩa quốc xã). Sau đây là tóm lược những ý kiến quan trọng nhất trong luận văn.
Tóm tắt
Giáo sư lịch sử Richard Weikart từ Đại học California State University, Stanilaus (Mỹ)
Thông qua việc nghiên cứu hệ tư tưởng của Hitler, nền giáo dục sinh học chính thống trong chế độ quốc xã, những luận văn của các nhà nhân chủng học Nazi và các tạp chí định kỳ của Nazi, chúng ta sẽ thấy các nhà lý thuyết về chủng tộc của Nazi bám lấy học thuyết của Darwin về nguồn gốc loài người, tức học thuyết về sự tiến hóa của con người và của các chủng tộc như thế nào.
TAMTHUC4) Các tạp chí định kỳ của Nazi, bao gồm các tạp chí về hệ tư tưởng chủng tộc, bám chặt lấy học thuyết về sự tiến hóa của con người;
5) Những tài liệu của Nazi được thiết kế nhằm khắc sâu thế giới quan của Nazi vào trong tư tưởng của các sĩ quan quân đội và SS đã nâng học thuyết về sự tiến hóa của con người lên thành một bộ phận không thể thiếu trong thế giới quan của Nazi.
Trong khi xem xét những bằng chứng này, tôi sẽ nhấn mạnh những cách thức mà tư tưởng chủng tộc của Nazi đã được định hình bởi học thuyết Darwin (học thuyết được định nghĩa như sự tiến hóa sinh học thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên).
Đầu tiên, hầu hết mọi nhà lý thuyết về chủng tộc của Nazi đều tin rằng con người đã tiến hóa từ vượn.
Thứ hai, họ đưa ra những giải thích về sự tiến hóa của những chủng tộc người khác nhau, bao gồm chủng tộc Phương Bắc hoặc Aryan (hai thuật ngữ này được sử dụng đồng nghĩa). Đặc biệt, họ tin rằng chủng tộc Aryan đã trở nên vượt trội (superior) vì những điều kiện khí hậu khắc nghiệt tại khu vực bắc-trung Âu trong giai đoạn Kỷ Băng giá (Ice Ages) đã tôi luyện họ trong cuộc đấu tranh sinh tồn, làm cho kẻ yếu bị diệt vong và chỉ để lại những người mạnh mẽ nhất.
Thứ ba, họ tin rằng trình độ tiến hóa chênh lệch giữa các chủng tộc là bằng chứng khoa học cho sự không ngang bằng (bất bình đẳng) tất yếu giữa các chủng tộc.
Thứ tư, họ có ý nghĩ cho rằng các chủng tộc khác nhau và không ngang bằng về tiến hóa tất yếu bị lôi cuốn vào cuộc đấu tranh sinh tồn không thể tránh khỏi.
Thứ năm, họ nghĩ rằng phương cách để chủng tộc của họ chiến thắng trong cuộc đấu tranh sinh tồn là sinh đẻ nhiều hơn các chủng tộc cạnh tranh với họ và giành được nhiều “không gian sinh tồn” (Lebensraum) hơn để sinh sôi bành trướng trong đó.
Thứ sáu, nhiều người lý luận rằng học thuyết Darwin đề cao một lý tưởng tập thể.
Sáu điểm này ─ rút ra từ quan điểm cho rằng loài người và các chủng tộc người đã và đang tiến hóa thông qua cơ chế Darwin về chọn lọc tự nhiên ─ tác động một cách sâu sắc đến chính sách của Nazi. Chúng tạo thành cơ sở của thuyết ưu sinh (eugenics), biện minh cho cuộc tàn sát những kẻ yếu vì đòi hỏi có “không gian sinh sống”, và biện minh cho chính sách diệt chủng.
Trong những bài viết và diễn văn của mình, Hitler thường xuyên viện dẫn các khái niệm của học thuyết Darwin, như khái niệm “tiến hóa” (Entwicklung), “tiến hóa cao hơn” (Höherentwicklung), “đấu tranh sinh tồn” (Existenzkampf or Daseinskampf), “đấu tranh vì sự sống” (Lebenskampf), và “chọn lọc” (Auslese). Trong một diễn văn năm 1937 ông ta không chỉ thể hiện niềm tin vào học thuyết về sự tiến hóa của con người, mà còn tán thành lý thuyết của Haeckel cho rằng mỗi sinh vật trong giai đoạn phát triển trong bào thai đều lặp lại các bước tiến hóa trước đây trong lịch sử tiến hóa…
Trong cuốn “Main Kampf” (Cuộc đấu tranh của tôi) của Hitler, thuyết tiến hóa đóng một vai trò trung tâm trong chương “Quốc gia và chủng tộc” (Nation and Race). Đó là chương duy nhất được công bố như một cuốn sách mỏng, được lưu hành rộng rãi để đề cao hệ tư tưởng của Nazi. Trong chương này Hitler giải thích tại sao ông ta cho rằng sự pha trộn chủng tộc là vi phạm các nguyên lý của thuyết tiến hóa. Ông ta viết:
Ảnh bìa cuốn tự truyện Mein Kampf của Adolf Hitler. (Ảnh: Internet)
“Bất kỳ sự pha trộn nào giữa hai người không có cùng cấp độ tiến hóa về chủng tộc sẽ tạo ra một người con ở cấp độ trung gian về tiến hóa giữa cha và mẹ. Điều này có nghĩa là đứa con sẽ tiến hóa cao hơn về chủng tộc so với người cha hoặc người mẹ thuộc chủng tộc thấp hơn, nhưng lại tiến hóa thấp hơn về chủng tộc so với người cha hoặc người mẹ thuộc chủng tộc cao hơn. Kết quả là đứa con sẽ thua trong cuộc đấu tranh sau này chống lại những chủng tộc ở cấp cao hơn. Sự phối ngẫu như thế là trái với mong muốn của Tự Nhiên ─ mong muốn gây giống cao hơn trong mọi sự sống.
Điều kiện tiên quyết để đạt được mong muốn này không phải là sự phối ngẫu chủng tộc cao hơn với chủng tộc thấp hơn, mà là sự chiến thắng hoàn toàn của chủng tộc cao hơn. Kẻ mạnh hơn phải thống trị và không trộn lẫn với kẻ yếu hơn, vì trộn lẫn như thế thì kẻ mạnh đã từ bỏ cái vĩ đại của chính mình. Chỉ có những kẻ sinh ra yếu hèn mới có thể xem điều này là tàn ác, nhưng hắn rốt cuộc cũng chỉ là một con người yếu hèn và kém cỏi; vì nếu quy luật này không chiếm ưu thế thì chúng ta không làm thế nào mà hình dung được bất kỳ một sự tiến hóa nào cao hơn có thể hiểu được của những thực thể sống hữu cơ.”
Vài dòng sau ông ta lại tiếp tục:
“Trong cuộc đấu tranh giành miếng ăn hàng ngày, những kẻ ốm yếu hoặc kém kiên quyết sẽ thua, trong khi cuộc đấu tranh của đàn ông giành phụ nữ chỉ ban phát quyền hạn hoặc cơ hội phát triển giống nòi cho kẻ khỏe mạnh nhất. Và cuộc đấu tranh luôn luôn là một phương tiện cải thiện sức khỏe và khả năng chịu đựng của một loài, và do đó, dẫn tới sự tiến hóa cao hơn của loài đó”.
Đó là lý do Hitler chống đối phối ngẫu di chủng (miscegenation), vì kiểu phối ngẫu này cản trở quá trình tiến hóa ─ cái Hitler coi là lợi ích cao nhất. Toàn bộ ý kiến nói trên của Hitler là nhằm áp dụng các nguyên lý về tiến hóa vào các quan hệ chủng tộc của con người, nên điều không thể chối cãi được là Hitler tin rằng loài người đã và đang tiến hóa. Và chính sách chủng tộc của Hitler nhắm vào mục tiêu nâng cao sự tiến hóa của con người (!)
Hitler suy nghĩ một cách rõ ràng rằng chủng tộc Phương Bắc đã tiến hóa cao, như ông ta đã giải thích trong một diễn văn năm 1920 nhan đề “Tại sao chúng ta bài Do Thái” (Why We are Anti-Semites). Hitler quả quyết chủng tộc Phương Bắc đã phát triển các đặc tính chủ yếu của nó, đặc biệt là xu hướng thích nghi với những công việc khó khăn và tinh thần phân biệt phải trái, cũng như năng lực thể chất, do khí hậu khắc nghiệt ở phương bắc.
Ông ta không lập luận rằng khi hậu trực tiếp gây ra một biến đổi trong những đặc tính sinh học (vì ông ta tin vào di truyền). Nhưng ông ta nghĩ rằng trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt thì chỉ những cá nhân có tinh thần hợp tác nhất, mạnh mẽ nhất, lao động chăm chỉ nhất mới có thể sống sót và chuyển giao những đặc tính di truyền của họ cho các thế hệ sau. Kẻ ốm yếu cũng như những kẻ lười biếng sẽ bị diệt vong trong cuộc đấu tranh sinh tồn.
Cuộc đấu tranh này làm cho chủng tộc Phương Bắc mạnh mẽ và vượt trội so với các chủng tộc khác, những chủng tộc tiến hóa trong những vùng khí hậu dễ chịu hơn. Qua đó có thể thấy rõ ràng là Hitler không tin vào Thuyết Sáng tạo ─ không tin rằng các chủng tộc Phương Bắc đã tồn tại từ trước đến nay vẫn thế, hoặc được sáng tạo ra ngay từ đầu đến giờ vẫn như thế.
Môn sinh học tiến hóa đã được đưa vào chương trình giáo dục sinh học ở Đức từ lâu trước khi đảng quốc xã của Hitler lên cầm quyền năm 1933 (vì thế nó đã có ảnh hưởng lớn đến các nhà tư tưởng của Nazi). Sự giải thích của học thuyết Darwin về quá trình tiến hóa được giảng dạy nổi bật tại nhà trường ở Đức, mặc dù không phải là không gây nên tranh cãi. Chương trình giáo dục sinh học dưới chế độ Nazi tiếp tục nhấn mạnh đến thuyết tiến hóa, bao gồm học thuyết về sự tiến hóa của con người và của các chủng tộc. Nền giáo dục và sách giáo khoa tiếp thu học thuyết Darwin và bãi bỏ học thuyết Lamarck, vì học thuyết Darwin phù hợp với tư tưởng của Nazi trong ý đồ nhấn mạnh đến tính di truyền các đặc tính được chọn lọc.
Năm 1938 Bộ Giáo dục Đức công bố một cuốn sổ tay trong chương trình giáo dục chính quy cho nhà trường. Cuốn sổ tay này dạy thuyết tiến hóa, bao gồm học thuyết về sự tiến hóa của các chủng tộc người, thông qua “sự chọn lọc và đào thải” (selection and elimination). Cuốn sách quy định “Học sinh phải chấp nhận định luật này như một cái gì đó hiển nhiên”. Đó là định luật về sự loại trừ (cái không phù hợp) cùng với sự tiến hóa và sự sinh sản, được xem như một định luật tự nhiên chủ yếu nhất và quan trọng nhất.
Ở lớp 5, giáo viên được hướng dẫn giảng dạy về “sự hình thành của chủng người nguyên thủy trong mối liên hệ với sự tiến hóa của động vật”. Ở lớp 8, học sinh được dạy thuyết tiến hóa nâng cao, bao gồm những bài học về “Học thuyết Lamarck và học thuyết Darwin, thế giới quan và những hàm ý chính trị của những học thuyết đó”. Đồng thời học sinh cũng được dạy về “nguồn gốc và sự tiến hóa của loài người và của các chủng tộc của nó”, bao gồm những phần về “loài người tiền sử và các chủng tộc người tiền sử” và “các chủng tộc người hiện đại theo quan điểm của lịch sử tiến hóa”.
Sách giáo khoa sinh học của Jakob Graf năm 1942 có toàn bộ một chương nhan đề “Thuyết tiến hóa và tầm quan trọng của nó đối với thế giới quan”. Trong đó Graf đả phá học thuyết Lamarck và đề cao thuyết tiến hóa của Darwin thông qua chọn lọc tự nhiên. Ông ta tuyên bố rằng việc hiểu biết về sự tiến hóa của con người là rất quan trọng, vì nó chứng tỏ con người không có gì đặc biệt trong thế giới sinh vật.
Ông ta cũng lập luận rằng thuyết tiến hóa chứng minh tính không ngang bằng (bất bình đẳng) của con người. Trong chương tiếp theo nhan đề “Khoa học về chủng tộc” (Racial Science) Graf dành 15 trang để thảo luận về sự tiến hóa của con người và khăng khăng nói rằng con người và vượn có tổ tiên chung. Tương tự như vậy, Erich Meyer và Karl Zimmermann cũng thảo luận về sự tiến hóa của con người trong sách giáo khoa của họ. Họ nói:
“Con người đã có mặt trong thời kỳ khắc nghiệt này [Kỷ Băng giá]. Trong cuộc chống chọi với tự nhiên con người đã ngày càng cải thiện về thể chất và trí tuệ. Con người ngày càng tiến hóa.Đầu tiên nó xuất hiện như một loài nửa động vật trước khi có con người (half-animal prehuman), rồi đến một loài người nguyên thủy sống trong hang động biết sử dụng lửa và tạo ra những dụng cụ bằng đá và vũ khí săn bắn”.
Qua những thí dụ nói trên có thể thấy học thuyết về sựu tiến hóa của con người là tiêu chuẩn cơ bản trong sách giáo khoa sinh học thời Nazi. Một cuốn giáo khoa sinh học năm 1942 của Hermann Wiehle và Marie Harm đã khuyến khích học sinh đi tham quan vườn thú để quan sát loài vượn, trong đó viết: “Vì trong chương trình giáo dục chúng ta đã được học nhiều về thuyết tiến hóa và nguồn gốc của loài người, vì thế khi đi thăm vườn thú, các loài vượn sẽ đặc biệt hấp dẫn chúng ta”. Cuốn giáo khoa này và những hoạt động ngoại khóa cho thấy rõ ràng là trẻ em ở Đức dưới Đế Chế thứ III (thời Nazi) đã được khuyến khích coi vượn là họ hàng tiến hóa của các em.
Hình trên: Hitler sử dụng thuyết tiến hóa để biện minh cho tư tưởng chủng tộc thượng đẳng. Chú thích trong hình:
“Nếu Tự Nhiên không muốn kẻ yếu phối ngẫu với kẻ mạnh, nó càng không mong muốn một người thượng đẳng hòa lẫn với một kẻ thấp kém; bởi vì trong trường hợp đó bao nhiêu cố gắng của tự nhiên qua hàng trăm ngàn năm để thiết lập nên một tầng lớp người tiến hóa cao hơn, vì thế mà có thể trở thành vô ích” (Adolf Hitler, Mein Kampf, trang 223)
Để chứng minh vai trò quan trọng của học thuyết Darwin trong việc tuyên truyền chính sách chủng tộc của Nazi, tôi khảo sát thêm 3 nguồn tài liệu quan trọng:
1/ Cuốn sách nhỏ của SS nhan đề “Rassenpolitik” (Chính sách chủng tộc);
2/ Chương trình giáo dục của SS về huấn luyện thế giới quan;
3/ Một cuốn sách nhỏ về tuyên truyền được viết cho quân đội Đức trong thời gian Thế Chiến II, “Wofür kämpfen wir?” (Chúng ta đang chiến đấu với cái gì?).
Tất cả các tài liệu này đều dứt khoát tán thưởng thuyết tiến hóa của Darwin, đặc biệt bao gồm học thuyết về sự tiến hóa của con người. Hơn nữa, những tài liệu này không ngẫu nhiên để cập đến học thuyết Darwin, mà chủ ý gắn nó vào một vị trí nổi bật trong hệ tư tưởng về chủng tộc của Nazi.
Học thuyết Darwin đóng một vai trò trung tâm trong cuốn sách mỏng “Chính sách chủng tộc”. Như đã được giới thiệu ở trang cuối, cuốn sách này được sử dụng để đào tạo hệ tư tưởng Nazi. Những trang mở đầu giải thích rằng những khái niệm trung tâm làm nền tảng cho hệ tư tưởng chủng tộc của Nazi là sự di truyền rõ ràng không thể chỗi cãi được và tình không ngang bằng về chủng tộc.
Tiếp theo nó khẳng định rằng tính không ngang bằng về chủng tộc đã xảy ra vì sự tiến hóa tiến lên nhờ đấu tranh. Các chúng tộc khác nhau đơn giản là không tiến hóa ở cùng một bước, mà ở những cấp độ khác nhau. Các tác giả khẳng định rằng ba chủng tộc chủ yếu của loài người ─ người Âu, người Mongoloid và người da đen ─ là những chủng phân nhánh từ một tổ tiên chung từ khoảng 100.000 năm trước đây.
Họ lập luận rằng các chủng tộc tiến hóa thông qua sự chọn lọc và đào thải, và chủng tộc Phương Bắc trở nên vượt trội vì nó đã phải đấu tranh sinh tồn trong những điều kiện cực kỳ khắc nghiệt. Trong suốt toàn bộ cuốn sách này, các thuật ngữ như “higher evolution” (tiến hóa cao hơn), “struggle for existence” (đấu tranh sinh tồn) và “selection” (chọn lọc) là những khái niệm cốt lõi được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Họ cũng đề cập đến những đột biến như một nguồn đổi mới trong quá trình tiến hóa. Trong cuốn sách này có một phần nhan đề “Mục đích cuộc sống” (The Purpose of Life), trong đó giải thích, “Bảo toàn và nhân giống bản thân mình là mục đích sâu xa nhất của cuộc sống... Tuy nhiên, sự bảo tồn và nhân giống chứa đựng xu thế cải thiện để đạt được sự tiến hóa cao hơn và hoàn hảo hơn, xu thế này tồn tại bên trong mọi sự sống.”..
Một cuốn sách nhỏ quan trọng khác nhằm mục đích nhồi sọ hệ tư tưởng Nazi là cuốn “Chúng ta đang chiến đấu với cái gì?”, một công trình do quân đội Đức xuất bản năm 1944. Hitler đã đích thân viết một lá thư phê chuẩn cuốn sách này, yêu cầu các sĩ quan không chỉ đọc nó, mà hãy dùng nó trong việc huấn luyện tư tưởng cho binh sĩ của mình. Cuốn sách này nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại tầm quan trọng của cuộc đấu tranh sinh tồn về mặt chủng tộc và của sự chọn lọc để bảo tồn và cải thiện giống người.
Cam kết của Nazi phấn đấu cho một “cấp độ tiến hóa cao hơn” của con người là nội dung chủ yếu của cuốn sách. Các tác giả lập luận rằng chủng tộc Phương Bắc đã là một chủng tộc tiến hóa cao nhất, nhưng họ nhắm tới mục tiêu cải thiện loài người hơn thế nữa. Họ quả quyết “Phương tiện để tạo ra kiểu con người mới này là những hướng dẫn được huấn luyện theo tinh thần thế giới quan của Nazi. Điều kiện tiên quyết của mục tiêu đó là duy trì sự thuần chủng về dòng máu và nâng cao trình độ tiến hóa của dòng máu của chúng ta thông qua sinh sản”. Bất kể tác giả cuốn sách này là ai thì người ấy đã nhấn mạnh hết mức đến tầm quan trọng của học thuyết về sự tiến hóa của con người đối với hệ tư tưởng về chủng tộc của Nazi.
Bằng chứng lịch sử không thể chối cãi được cho thấy học thuyết về sự tiến hóa của con người, tức học thuyết của Darwin về nguồn gốc loài người, là một bộ phận không thể thiếu của hệ tư tưởng chủng tộc của chủ nghĩa quốc xã. Học thuyết về sự tiến hóa của con người chiếm một vị trí nổi bật trong chương trình giáo dục ở nhà trường dưới chế độ Nazi và trong các chương trình đào tạo thế giới quan của Nazi.
Các sĩ quan Nazi và các nhà nhân chủng học SS nhất trí cho rằng con người, bao gồm chủng tộc Phương Bắc, đã tiến hóa từ vượn. Họ tin rằng chủng tộc Phương Bắc đã tiến hóa tới cấp độ cao hơn về trí tuệ, về năng lực thể chất, và về tinh thần đoàn kết xã hội so với các chủng tộc khác, phần lớn bởi vì họ phải đối mặt với cái mà các nhà sinh học ngày nay cọi là “áp lực chọn lọc” (selective pressure) lớn hơn. Áp lực chọn lọc này là kết quả của Kỷ Băng giá, giai đoạn khí hậu khắc nghiệt này đã loại bỏ những kẻ ốm yếu và bệnh tật, chỉ để lại những kẻ thông minh nhất và hoàn hảo nhất để nhân rộng ra trong chủng tộc Phương Bắc. Họ coi thuyết ưu sinh và chính sách chủng tộc như một phương tiện giúp cho chủng tộc Phương Bắc tiến hóa tới mức cao hơn nữa.
Nhìn toàn cục, những tư tưởng này không chỉ là tư tưởng của đảng quốc xã, mà đồng thời còn là tư tưởng của nhiều nhà sinh học và nhân chủng học hàng đầu ở Đức trước khi đảng quốc xã lên cầm quyền. Hệ tư tưởng chủng tộc của Nazi và nhiều chính sách dựa trên đó đã được định hình một cách sâu sắc bởi sự hiểu biết của học thuyết Darwin về con người. Tất nhiên có những yếu tố không liên quan tới học thuyết Darwin đã được kết hợp với học thuyết Darwin, như: tính vượt trội của chủng tộc Aryan, quan điểm chống phối ngẫu dị chủng, chủ nghĩa bài Do Thái, và nhiều thứ khác nữa…
Tuy nhiên, hệ tư tưởng chủng tộc của Nazi đã tích hợp tất cả những yếu tố này vào trong một thế giới quan nhấn mạnh vào sự biến đồi chuyển tiếp giữa các loài, sự hình thành các chủng tộc người theo kiểu tiến hóa, nhu cầu nâng cao cấp độ tiến hóa của con người, tính tất yếu của cuộc đấu tranh sinh tồn trong loài người, và nhu cầu giành giật “không gian sinh sống” để thắng lợi trong cuộc đấu tranh tiến hóa.
Nhà sinh học Reche, tác giả cuốn “Di truyền học của sự hình thành nòi giống” (Die Genetik der Rassenbildung), kết luận: “Tất cả những sự kiện đã đề cập đến trong vấn đề nguồn gốc con người và sự phát triển các chủng tộc của nó đều có thể giải thích được bằng di truyền. Nếu không có sự xuất hiện khác biệt về di truyền, không có sự chọn lọc và đào thải, sẽ không bao giờ hình thành những chủng tộc tiến hóa cao, các bô lạc sẽ không bao giờ có thể hoàn tất nhiệm vụ cao nhất, và con người sẽ không bao giờ đạt tới một nền văn hóa cao hơn.
Sự hiểu biết này bắt buộc chúng ta phải đảm đương nhiệm vụ chọn lọc có ý thức để có được những chủng tộc thích hợp, khỏe mạnh theo di truyền, những con người sáng tạo văn hóa trong tương lai và do đó mới nâng đời sống của con người lên cao hơn đời sống của động vật”. Quan điểm của Reche rất phù hợp với tư tưởng của Nazi, một tư tưởng nhắm tới mục tiêu cuối cùng là cải thiện giống loài con người về mặt sinh học, nghĩa là nâng cấp tiến hóa của con người.
Viện này hoàn toàn bác bỏ thuyết tiến hóa về mặt khoa học và chủ trương giải thích sự hình thành sự sống thông qua Lý thuyết Thiết kế Thông minh. Richard Weikart là một trong những cái gai lớn nhất đối với các nhà tiến hóa. Giới tiến hóa thường tìm mọi cách làm giảm uy tín của ông. Nhưng những người có tư duy độc lập đều biết rằng ở đâu giới tiến hóa dẫy nẩy lên chống đối mạnh nhất thì đó chính là chỗ thuyết tiến hóa yếu nhất, lộ bản chất phản khoa học và phản nhân văn rõ nhất.
2. Tôi đã nhiều lần thảo luận về tác hại của học thuyết Darwin đối với xã hội loài người (*). Nhưng sự thảo luận này không bao giờ là đủ, vì cho đến nay vẫn có nhiều người nghĩ rằng bản thân học thuyết Darwin là một lý thuyết khoa học, và do đó, nếu nó bị lợi dụng vào những mục đích xấu xa thì đó là trách nhiệm của những kẻ lợi dụng nó, thay vì bản thân nó đáng bị lên án.
Tôi xin nhấn mạnh rằng đó là một sự nhầm lẫn tai hại. Sự thật là bản thân thuyết tiến hóa chứa đựng những quan điểm học thuật sai trái, tạo nên một chỗ dựa vững chắc cho những hệ tư tưởng phản nhân văn, điển hình là chủ nghĩa quốc xã Đức trong nửa đầu thế kỷ 20, như luận văn nói trên của Richard Weikart đã cho thấy.
Trong bài báo “Darwin đã dạy Hitler điều gì?” (What Darwin taught Hitler?) trên tạp chí SIGNS of The Times của Australia số Tháng 10/1996, Granville Kent chất vấn: “Nếu Darwin đúng thì tại sao chúng ta lại kết tội Hitler?”. Câu trả lời là gì, nếu không phải là chính Darwin là người phải chịu trách nhiệm về những tư tưởng phản nhân loại, mà Hitler đã tiếp thu và biến thành những chương trình hành động tội ác? Hãy so sánh tuyên bố của Hitler như đã trích dẫn ở trên với tuyên bố của chính Darwin sau đây, trích trong cuốn “Nguồn gốc loài người” của ông:
3. Khi đọc luận văn nói trên của Richard Weikart, có thể có một số người sẽ rất ngạc nhiên trước những tư tưởng điên rồ và quái gở của chủ nghĩa quốc xã khi họ muốn làm công việc “vá trời lấp biển” ─ cải tạo và nâng cấp trình độ tiến hóa của con người, như những gì Weikart đã trình bày. Quả thật, với trí tuệ của loài người hiện nay, khi nhìn lại những học thuyết của chủ nghĩa quốc xã những năm 1920-45, chúng ta khó có thể tưởng tượng được làm sao những thứ lý luận điên rồ và quái gở như thế lại có thể chinh phục được dân tộc Đức một thời, một dân tộc trước đó đã từng đẻ ra những Johann Sebastian Bach, Ludwig Van Beethoven, Johann Wolfgang von Goethe,…
Đó là câu hỏi nhức nhối đáng để làm những luận án tiến sĩ về khoa học lịch sử, về xã hội học, về tâm lý học, về đạo lý của con người,… Riêng tôi, tôi có câu trả lời rất dễ hiểu và đơn giản: Giai đoạn chủ nghĩa quốc xã thịnh hành nhất cũng chính là giai đoạn thuyết tiến hóa của Darwin đạt được những thắng lợi tuyệt đối trên diễn đàn sinh học, nhờ công lao đóng góp RẤT LỚN của những vụ lừa đảo về tiến hóa.
Điển hình là vụ “Người Piltdown”. Với những vụ lừa đảo này, toàn nhân loại trong nửa đầu thế kỷ 20 đã bị đánh lừa, nên đã tin chắc 100% rằng tiến hóa là chuyện có thật! Hóa thạch “Người Piltdown” là bằng chứng mạnh nhất chứng minh rằng người tiến hóa từ vượn. Chú ý rằng mãi đến năm 1953, “Người Piltdown” mới bị vạch mặt là giả mạo, và rằng đây là vụ lừa đảo lớn nhất thế kỷ 20. Lúc ấy Hitler đã chết rồi, chủ nghĩa quốc xã đã sụp đổ rồi.
Vậy xin đừng ngạc nhiên tại sao Hitler và bộ máy tuyên truyền của Nazi lớn tiếng ủng hộ thuyết tiến hóa như thế. Đơn giản là chính Hitler tin tưởng tuyệt đối vào thuyết tiến hóa, như hầu hết mọi người trước năm 1953 tin tưởng! Tại sao không tin khi những bằng chứng như “Người Piltdown”,… được toàn thế giới công nhận? Nếu bạn sống vào thời điểm trước 1953, liệu bạn có dám cãi lại toàn thế giới không?
Để thấy rõ những vụ lừa đảo về tiến hóa đã đóng góp lớn như thế nào vào sự thắng lợi của thuyết tiến hóa, chúng ta không được phép quên vụ án John Scopes năm 1925 tại tiểu bang Tennessee, Mỹ. Trong vụ án này, anh giáo viên John Scopes đã vi phạm luật của tiểu bang ─ luật cấm dạy học thuyết về sự tiến hóa của con người theo học thuyết Darwin tại các trường được chính quyền tiểu bang cấp kinh phí hoạt động.
John Scpopes bị chính quyển tiểu bang kiện ra tòa. Nhưng…. chỉnh quyền tiểu bang đã thua trong vụ án này, vì luật sư Clarence Darrow đã dùng bằng chứng “Người Piltdown” để cãi cho John Scopes, rằng Scopes không làm điều gì khác hơn là chỉ giảng dạy những chân lý đã được chứng minh bởi khoa học (!). 28 năm sau, tức năm 1953, toàn thế giới biết đó không phải là chân lý khoa học, mà là một vụ lừa đảo!
Nhưng vụ án không bao giờ được xử lại. Clarence Darrow đã chết trước năm 1953. Liệu linh hồn ông ở thế giới bên kia có thấy xấu hổ không? Tôi tin là không, vì ông sẽ có lý để tự biện hộ rằng bản thân ông cũng bị đánh lừa! Nếu Adolf Hitler còn sống tới sau năm 1953, và nếu ông ta bị đem ra xử tội trước tòa án Nuremberg, rất có thể ông ta cũng tuyên bố rằng ông ta đã bị đánh lừa.
Ai đánh lừa? Phải chăng thủ phạm chỉ là gã Charles Dawson, kẻ được coi là nghi can số 1 trong vụ lừa đảo “Người Piltdown”. KHÔNG! Còn nhiều thủ phạm khác, như Ernst Haeckel đã nói, khi ông ta bị luận tội lừa đảo trong vụ các tranh vẽ về bào thai. Nhưng…
Thủ phạm lớn nhất chính là sự thiếu hụt bằng chứng và sự tuyệt đối vô bằng chứng của thuyết tiến hóa!
Tình trạng đó đã đẩy rất nhiều nhà tiến hóa đi tới chỗ tìm đủ mọi cách để có bằng chứng. Đó là nguyên nhân gốc rễ của những vụ lừa đảo trong thuyết tiến hóa. Và phải nói rằng những vụ lừa đảo này đã đạt được THÀNH CÔNG LỚN là làm cho mọi người trong một thời gian RẤT DÀI tin chắc vào thuyết tiến hóa. Và đó là lý do thuyết tiến hóa đã xâm chiếm vào các trường học trên khắp thế giới, đến nay đã trở thành một sự đã rồi, một sai lầm rất khó sửa chữa! Có nhiều nạn nhân bị lừa đảo KHÔNG BAO GIỜ được biết sự thật.
Đến nay, truyền thống lừa dối vẫn tồn tại, bằng chứng là những sự thật về các vụ lừa đảo động trời trong thuyết tiến hóa vẫn không được nói cho học sinh ở nhà trường biết, không được loan báo trên các phương tiện thông tin chính thống trên khắp thế giới. Các nhà tiến hóa đã, đang và sẽ tiếp tục che giấu sự thật. Đơn giản vì họ biết rằng chừng nào những sự thật này được công khai hóa cho mọi người biết thì đó là lúc thuyết tiến hóa sụp đổ!
Nguồn:http://www.daikynguyenvn.com/khoa-hoc-cong-nghe/tac-hai-cua-thuyet-tien-hoa-phan-1.html