Khi nhắc tới “Phật”, có lẽ không ít người đều liên tưởng tới hình tượng trang nghiêm và thần thánh của các vị Phật như Đức Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, hay Đại Nhật Như Lai.
Vậy hàm nghĩa thật sự của chữ “Phật” ấy là gì? Những người như thế nào thì được gọi là “Phật”?
Từ “Phật” trong Phật giáo thường dùng để chỉ một nhân vật có thật trong lịch sử, một đấng toàn năng đã truyền bá các Pháp lý của mình ở Ấn Độ tên là Tất Đạt Đa. Những giáo lý của Ngài chính là nền tảng khai sinh ra Phật giáo hiện nay.
Tương truyền, Tất Đạt Đa là thái tử của vương quốc Ca Tỳ La Vệ, con trai vua Tịnh Phạn, sinh ra tại Ấn Độ cổ hơn 2500 năm trước đây.
Theo kinh sách ghi ghép lại, vào lúc Thái tử Tất Đạt Đa giáng sinh thì toàn bộ vũ trụ được bao phủ bởi ánh hào quang rực rỡ. Những người mù vì khát khao được nhìn thấy tương lai rạng rỡ của ngài mà hồi phục thị giác, người câm điếc vui mừng đàm luận những sự việc sắp xảy ra trong tương lai, lưng của những người gù thì thẳng trở lại, người què người thọt bước đi như bay, tù nhân thì được thả tự do, hỏa diễm trong địa ngục bị dập tắt, ngay cả loài dã thú cũng im lặng phăng phắc, không dám hành ác. Bởi vậy mà toàn bộ thế giới đắm chìm trong một bầu không khí hòa bình và yên tĩnh. Duy chỉ có Ma vương Ba Tuần là không vui vẻ chào đón sự ra đời của ngài.
Khi thái tử lớn lên, cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ đau và vô thường của cuộc đời người, Ngài đã xuất gia tu hành. Sau này khi đã khai ngộ, vì mong muốn chúng sinh được giải thoát khỏi bể khổ, Ngài đã đi khắp nơi truyền rộng Phật Pháp.
Vào những năm cuối trước khi nhập cõi niết bàn, Phật Pháp mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni truyền bá đã làm rung động cả Ấn Độ, ngay cả các bậc đế vương cũng rất tôn sùng và kính trọng Ngài.
Rất nhiều người đã từng tới hỏi Phật Thích Ca Mâu Ni rằng: “Ngài rốt cuộc là ai?” hay “Ngài có phải là một vị Thần hay không?”
Nhưng Phật Thích Ca Mâu Ni đều đáp rằng: “Không phải!”
Lại có người hỏi: “Ngài là một vị sứ giả của trời sao?”
Vậy, từ “Giác Giả” mà Phật Thích Ca Mâu Ni nói đến là gì? Trong tiếng Phạn, đấng Giác Giả được gọi là “Buddha”, là do hai từ gốc “budh” và “ta” ghép thành. Chữ “dh” khi gặp chữ “t” đứng sau thì liền được chuyển thành chữ “ddh” và bỏ “t” (Buddha = Budh + ta).
Chữ gốc “budh” có nghĩa là “tỉnh” (tỉnh ngộ, giác ngộ, thoát khỏi mê) và “biết” (hiểu biết, tri thức). Bởi vậy chữ “Buddha” có nghĩa là người đã giác ngộ, người đã thức tỉnh. Chỉ có những bậc chân tu trong chính Pháp, qua quá trình tu luyện gian khổ mới có thể thoát khỏi bể trầm luân, bước ra khỏi vòng sinh tử và trở thành đấng giác ngộ.
Sau khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, chữ “Buddha” được phiên âm thành “Phù Đồ” (浮屠) hay “Phật Đà” (佛陀). Trong quá trình Phật giáo lưu truyền về sau, người ta đã lược bớt đi chữ “Đà” và gọi Đức Thích Ca Mâu Ni là “Phật”. Do đó, ý nghĩa chân chính của chữ “Phật” chính là Giác Giả, là người đã giác ngộ, người đã thông qua tu hành mà giác ngộ.
Kiên Định
Nguồn:http://www.daikynguyenvn.com/van-hoa/thien-ngo-ve-ham-nghia-cua-chu-phat.html