LTS: Gần đây nhiều nhà kiến trúc, phong thủy và lịch sử đã lên tiếng kiến giải sự yểu mệnh của một vài triều đại trong lịch sử Việt Nam liên quan đến yếu tố chọn đất xây thành. Có ý kiến cho rằng thế “rồng cuộn, hổ chầu” trong Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ bị hiểu sai hoặc vận dụng không đúng dẫn tới chuyện cả vương triều đặt trên vùng Âm trạch (tức là đất tốt để làm việc âm), thay vì Dương trạch. Phóng viên đã về tận Cao Bằng, Lạng Sơn và Thanh Hóa, tìm đến các di tích và vùng đất cổ, gặp gỡ những nhân chứng và các nhà phong thủy, lịch sử để tìm kiếm những giả thuyết khả dĩ giải mã sự yểu mệnh của nhà Hồ và nhà Mạc.
Từ thành phố Thanh Hóa, đi về phía tây khoảng hơn 50 km, qua ngã ba Kim Tân thêm chừng 1 km nữa, sẽ thấy nơi cuối con đường hiện sừng sững một cổng thành đá ba vòm uốn cong, dưới chân tường cỏ phủ xanh. Đó là cổng chính của một tòa thành cổ, ra đời từ cách đây đã hơn 600 năm: Tây Đô, hay như chúng ta thời nay gọi “thành nhà Hồ”.
Vào những ngày này, Ban Quản lý di tích và thành phố Thanh Hóa đang trong quá trình chờ UNESCO xét duyệt hồ sơ công nhận thành nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới, nếu không có gì thay đổi thì năm 2011 sẽ có kết quả. Xét về phương diện kiến trúc, công trình khá độc đáo, theo nhận định của ban quản lý thì “cả khu vực Đông Nam Á không có ngôi thành nào thế này”. Độc đáo bởi lẽ toàn bộ thành xây bằng đá; những tảng đá lớn nặng 2-3 tấn, có khối nặng tới 20 tấn, được xếp vào nhau cực kỳ khít khao, bằng phẳng mà không hề dùng vữa. Tổng diện tích bề mặt đá đo được (mặt ngoài, chưa tính phần lõi) là hơn 10 triệu m2. Người đời nay tới thăm thành có thể kinh ngạc, không hiểu làm cách nào mà thời Hồ (cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15), phu xây thành lại có thể di chuyển những khối đá lớn như thế để xây nên những bức tường có chiều cao trung bình 5-6 m, cổng mái vòm gần 10 m. Đó là chưa kể các tảng đá đều được mài nhẵn, vuông vức, xếp rất khít vào nhau. Nhà nghiên cứu người Pháp L.Bezacier từng nhận xét vào đầu thế kỷ 20: “Ngôi thành này là một mẫu mực độc nhất về việc sử dụng những khối đá vôi to lớn, được đẽo gọt và ghép một cách rất tài tình…”. Vì lý do này, Tây Đô còn có được gọi là “thạch thành”, nghĩa là thành đá.
Trải qua sáu thế kỷ, một số bức tường đã bị sạt lở, song bốn cổng thành vẫn còn nguyên, trong đó chỉ riêng cổng Nam (cổng chính, mặt tiền) là có ba vòm, các cổng Bắc, Đông, Tây đều “đơn môn” (một cửa). Chiều dài từ cổng Bắc tới cổng Nam là 880 m, Đông sang Tây 877 m, tức là tổng diện tích nội thành gần 1 km2 . Các kiến trúc khác mà sử sách có ghi lại như La Thành (vòng thành ngoài cùng), điện Hoàng Nguyên, cung Diên Thọ, v.v… đều không còn nữa, chỉ để lại dấu tích.
Tây Đô độc đáo còn vì đây là ngôi thành đã chứng kiến bảy năm tồn tại của nhà Hồ – một triều đại yểu mệnh trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Ông vua nổi tiếng của triều đại này – Hồ Quý Ly – được ghi nhận như là một nhà cải cách đầy tham vọng, đã dời đô từ Thăng Long về Thanh Hóa, xây một ngôi “thạch thành” kiên cố đủ cả tường cao, hào sâu, trên vùng đất mà chính ông nhận xét là “long xà ẩm thủy”, “rồng chầu rắn cuộn”. Vậy mà khi quân Minh kéo sang, vua quan Hồ Quý Ly thua chạy dài, thành Hồ chưa (kịp) bị tấn công ngày nào đã thất thủ.
“Thế đất xung quanh còn non lắm”
Theo giới nghiên cứu thì Hồ Quý Ly đã có sự tính toán, chuẩn bị rất kỹ cho việc chọn đất xây thành, ít nhất là về mặt phong thủy. Thời đó, khu đất xây thành được bao quanh bởi cả sông và núi: Từ cổng Tây đi ra có dòng sông Mã. Phía Đông có dòng sông Bưởi. Phía Bắc gối đầu vào núi Thổ Tượng, còn gọi là núi Voi. Cổng chính mở ra hướng Nam, tiến thẳng về Đún Sơn (tức núi Đún theo tiếng địa phương), là nơi đặt đàn tế Nam Giao – một trong bốn đàn tế xã tắc còn lại ở Việt Nam đến ngày nay.
Hồ Quý Ly rất tâm đắc với mảnh đất này, cho là đắc địa, có thể xây nền đế nghiệp lâu dài, bởi sông Mã lớn như con rồng chầu phía tây, sông Bưởi nhỏ hơn uốn lượn như con rắn cuộn phía đông. Hai bên là sông, trước mặt sau lưng là núi, thế vững như vậy, đây hẳn là “mảnh đất long xà ẩm thủy, có thể ở được lục thập niên ký” (tức là trên dưới 60 năm).
Cổng Nam thành nhà Hồ, xây từ 1397. Ảnh: Đoan Trang
Tiếc thay, không được như mong đợi của Hồ Quý Ly, nhà Hồ chỉ thọ được thất niên. Dân gian có vài giai thoại đồn rằng thảm bại của họ Hồ xuất phát từ sai lầm trong phong thủy xây thành. Giai thoại thứ nhất kể Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết đã dâng thư can nhưng Quý Ly không nghe. Thư viết: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ (tức Thăng Long) có núi Tản Viên, có sông Lô, Nhị, núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi. Từ xưa các bậc đế vương mở nền dựng nước, không đời nào không lấy đất ấy làm nơi sâu gốc bền rễ (…). Xin nghĩ lại điều đó, để làm thế vững vàng cho nhà nước. An Tôn đất đai chật hẹp, hẻo lánh, ở nơi đầu non cuối nước, hợp với loạn mà không hợp với trị”. (Theo giải thích của TS Đỗ Quang Trọng, Trưởng ban quản lý di tích, sở dĩ gọi là “đầu non cuối nước” vì xuôi về phía Nam thì sông Mã và sông Bưởi có gặp nhau ở một điểm, cổng Bắc thành thì gối vào núi Thổ Tượng).
Một giai thoại khác cho rằng từ cổng chính thành mở ra một con đường lát đá dài 2,5 km chạy thẳng về đàn tế Nam Giao, con đường này giống như mũi tên, mà núi Đún nơi đặt đàn tế thì uốn vòng như một cánh cung giương sẵn. Hai yếu tố này phối hợp, làm thành một thế cực độc về phong thủy: Tên bắn thẳng vào thành. Song nói chung kể cả nếu không phạm vào cái thế này thì thành nhà Hồ cũng khó vững, bởi như chính Hồ Hán Thương (con trai Hồ Quý Ly) đã nói, mảnh đất này tuy là thạch bàn long xà nhưng “thế đất xung quanh hãy còn non lắm, nên chỉ ở được lục niên ký (sáu năm) mà thôi”. Nhà Hồ đã tính lầm ngay từ khi dời đô về phủ Thanh Hóa.
“Anh hùng di hận kỷ thiên niên”
Đời nay nhìn lại sẽ là giản đơn và thiếu khoa học nếu quy thất bại của nhà Hồ cho việc dời đô và chọn đất sai phong thủy. Nhưng theo các sử gia, trong số các nguyên nhân của thất bại, ít nhất có nguyên nhân “làm mất lòng dân”, mà việc dời đô góp một phần vào đó. Nhà Trần có 175 năm tồn tại, trải 13 đời vua, ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Đất Thăng Long vì thế đã gắn bó quá sâu đậm với lòng dân, với nhà Trần. Dời đô khỏi miền đất ấy khác nào chặt một cái cây khỏi cội rễ của nó. Còn mảnh đất định đô mới, dẫu có là nơi đắc địa với quan niệm của Hồ Quý Ly thì như Nguyễn Nhữ Thuyết thống thiết can: “Cho dù dựa vào thế hiểm trở thì đời xưa đã có câu: Cốt ở đức chứ không cốt ở hiểm”.
Triều Hồ thất bại. Có lẽ chỉ Nguyễn Trãi là giữ tấm lòng thương cảm với Hồ Quý Ly khi ông viết: “Họa phúc hữu môi phi nhất nhật/Anh hùng di hận kỷ thiên niên” (Họa phúc có manh mối không phải một ngày/Anh hùng để mối hận mấy ngàn năm sau).
Về phương diện phong thủy, xây thành, định đô bao giờ cũng được coi là một câu chuyện đậm tính tâm linh, từ chọn hướng đất tới hoạch định kiến trúc, rồi trấn yểm, giữ thành. Những chuyện ấy luôn thần bí và chính vì thế luôn thu hút sự tò mò của dân chúng.
Bài 1: Tây Đô thành hoài cổ
Gạt bỏ những yếu tố tâm linh chưa giải thích được ngay một cách rộng rãi, giả thuyết sự yểu mệnh của nhà Hồ, nhà Mạc do chọn sai thế đất thực chất là muốn đề cập đến những nguyên tắc cơ bản và quan điểm chức năng trong việc chọn đất để làm thủ đô.
Dạo bước dưới chân thành cổ nhà Hồ, tha thẩn trong thành nội Huế, hay thắp nén nhang trong thành Cổ Loa, người ta cảm thấy bồi hồi khó tả khi quá khứ xa xưa như đang vọng về trong từng ngọn cỏ, lớp đá, từng viên gạch cũ…; khi nhìn lại những nơi mà theo sử sách mô tả từng là chốn lầu son gác tía nguy nga, tráng lệ ngày xưa, nay chỉ còn là phế tích.
Việt Nam từ buổi lập nước tới nay, trải qua các thời đại đã có nhiều kinh đô: thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội), Hoa Lư (Ninh Bình), Thăng Long-Đông Đô (Hà Nội), kinh thành Huế. Nhà Hồ (1400-1407) và nhà Mạc (1527-1592) bị sử cũ coi là “ngụy triều”, cũng có lập thành Tây Đô ở Thanh Hóa và thành nhà Mạc ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang.
Từ lựa chọn của người xưa…
Theo một số chuyên gia địa lý, tất cả thành quách dù lớn dù nhỏ đều là nơi phồn hoa đô hội, dân chúng tụ tập, “bé thì là thị trấn, thị tứ, lớn thì làm thành phố, cực thủ thì trở thành thủ đô”. Tất cả thành quách đều có sông núi bao quanh, như Tây Đô có sông Mã, sông Bưởi và núi Thổ Tượng, Đún Sơn; kinh đô Huế có sông Hương, núi Ngự…
Chùa Trấn Quốc được xem như một “điểm tâm linh” của Hồ Tây (Hà Nội). Ảnh: ĐOAN TRANG
Nhưng để chọn một nơi định đô thì không phải thành phố nào cũng đáp ứng. Các triều đại phong kiến hưng thịnh Việt Nam đã dựa vào khoa địa lý phong thủy để chọn Hà Nội vì Hà Nội lấy núi Ba Vì làm tọa sơn, phía tả có tay long chạy từ Tam Đảo ra tận Quảng Ninh, phía hữu có tay hổ là dãy núi chạy dài qua Ninh Bình, Tam Điệp, ra cửa biển Thần Phù. Tay long dài, tay hổ ngắn tạo thành thế “long bão hổ” không gì quý bằng. Đằng trước là cả một vùng châu thổ sông Hồng làm “minh đường” (được hiểu như khoảng đất, khoảng sân trống trước cửa nhà), rộng mênh mông, xa hơn nữa là biển Đông vỗ sóng. Đó là một thế đất cực vượng, đúng như Lý Thái Tổ đã tuyên trong Chiếu dời đô năm Canh Tuất 1010:
“Thành Đại La (…) ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”
(Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch của Viện Khoa học xã hội Việt Nam).
Báo cáo tiếp thu, giải trình về việc mở rộng địa giới hành chính thủ đô Hà Nội do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa 12 cũng nhấn mạnh đến vị thế địa lý phong thủy này:
Theo phương án mở rộng này, địa thế của Hà Nội tựa vào dãy núi Ba Vì và hướng ra dòng sông Hồng, Hà Nội sẽ luôn giữ được thế rồng cuộn hổ ngồi tiện hướng nhìn sông dựa núi; tiếp nối được giá trị khoa học và nghệ thuật trong lịch sử hình thành và phát triển đô thị Việt Nam là luôn gắn môi trường sống của con người với môi trường cảnh quan thiên nhiên, đó cũng là xu hướng phát triển bền vững nhất mà nước ta cũng như các quốc gia trên thế giới đang hướng tới.
Cái mà các nhà nghiên cứu gọi là long mạch đó chính là Hồ Tây và các con sông, hồ khác ở Hà thành: “Hồ Tây lấy nước từ sông Hồng, rồi đổ vào các con sông chảy quanh Hà Nội, đó là mạch long cực đẹp, là nơi tụ khí rất tốt. Mà nguyên tắc của phong thủy là khí tụ thì vật tụ, vật tụ thì tài tụ, tài tụ thì người tụ lại. Hội được nhiều yếu tố tốt đẹp như thế nên Lý Thái Tổ mới lấy đất này làm nơi đóng đô ngàn năm và nó sẽ còn thịnh vượng mãi mãi nếu được tu bổ”.
… Đến những nguyên tắc khoa học hiện đại
Nhìn trên giác độ khoa học, đó phải chăng là do thời xưa, khoa học kỹ thuật chưa phát triển, giao thông khó khăn, người ta cần tụ về các khu vực có sông có nước để dễ bề đi lại, vận chuyển (bằng đường thủy)? Ngoài ra, điều này còn xuất phát từ những lý do đã được nhắc tới nhiều như môi trường sông nước tạo ra những vùng châu thổ phì nhiêu, thường là nơi khí hậu trong lành, mát mẻ, tốt cho sức khỏe và sinh hoạt của con người.
Trong lịch sử, các đô thị lớn ở nhiều nước trên thế giới đều có một dòng sông lớn chảy trong lòng thành phố. Như thủ đô Washington, DC của nước Mỹ có sông Potomac, Paris có sông Seine, London có sông Thames, Vienne (Áo), Bratislava (Slovaque), Budapest (Hungary) và Belgrade (Serbie) có sông Danube, TP Hambourg (Đức) có sông Elbe, Thượng Hải (Trung Quốc) có sông Hoàng Phố… Đó đều là những con sông đẹp đẽ, thơ mộng, tô điểm cho cảnh quan. Có lẽ chẳng phải ngẫu nhiên mà trong quá khứ, khi còn chưa có khái niệm quy hoạch hiện đại, mảnh đất nơi những sông này chảy qua đã được dân chúng lựa chọn mà tụ về, dần dà trở thành thủ đô hay thành phố lớn. Còn nói về thế tựa núi và núi non bao bọc đó chính là nói về “bức tường thành” ngăn bão tố…
Đoạn tường còn sót lại của thành nhà Hồ (huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Ảnh: ĐOAN TRANG
So với các kinh đô cổ khác ở Việt Nam (cũng đều có núi có sông bao bọc) thì Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội vẫn là nơi hội đủ các yếu tố tích cực về địa thế. Ví như thành Tây Đô của nhà Hồ ở Thanh Hóa có núi có non nhưng đó chỉ là phần kéo dài của “tay hổ” ở Hà Nội, địa thế “hợp với loạn mà không hợp với trị”. Nhà Mạc chọn Cao Bằng tuy đất đai hiểm trở nhưng chỉ có núi đồi, đường đi khó khăn. Nói theo ngôn ngữ thời nay thì đó không phải là nơi để làm ăn kinh tế, không chứa được muôn dân, không thể hội tụ dân về định đô muôn đời. Xứ Huế với sông Hương núi Ngự thì núi không cao, sông không sâu, nước chảy lờ đờ, đất không rộng rãi nên chỉ làm thành phố chứ không làm thủ đô được.
Theo nhà nghiên cứu Hà Thủy (Tuần Việt Nam, 1-6-2010), đó là lựa chọn địa điểm, quy hoạch cho trung tâm chính trị-hành chính quốc gia (đồng nghĩa quy hoạch đô thị trung tâm quyền lực nhà nước bao gồm các cơ quan hành pháp, lập pháp, cơ quan tư pháp tối cao) là nhiệm vụ hàng đầu, mang ý nghĩa căn bản nhất, làm tiền đề, cơ sở để nghiên cứu thực thi các mục tiêu quy hoạch khác… Phát triển bền vững thành phố thủ đô trước tiên phải phát triển bền vững hạt nhân đô thị đặc thù của thủ đô (tức đô thị trung tâm quyền lực nhà nước, đô thị trung tâm văn hóa-lịch sử).
Sự lựa chọn này có tác động quyết định đến vận mệnh của đất nước, không thể xem nhẹ các bài học lịch sử trong nước và quốc tế nhưng rất cần có các nghiên cứu chuyên sâu, khoa học, không theo cảm tính, mê tín, dị đoan “trục tâm linh” nào cả.
Nhà nghiên cứu này nhận xét: Các thủ đô ngàn năm tuổi (Roma, London, Paris, Bắc Kinh, New Delhi) vẫn tươi mới, giàu sức sống, đẹp và thịnh vượng với tư cách một thủ đô tập quyền.
Hà Nội qua lịch sử ngàn năm đã tự khẳng định là thủ đô trung tâm quyền lực quốc gia và hiến pháp cũng đã khẳng định như thế.
Đoan Trang
Theo : Phapluat TP
TAMTHUC