Nàng Mơn bông đỏ:
Lá của loại bông đỏ thường có màu xanh tươi hơn so với Mơn bông trắng. Cọng lá cũng dẹp hơn, và rộng hơn so với lá hẹ. Nàng Mơn đỏ có hoa màu hồng và hồng đậm. Cánh hoa có loại 6 cánh, 7 cánh và 8 cánh. Trong 3 loại này, chỉ lấy một loại để làm phép mà thôi. Không phải hoa nào cũng có thể lấy để luyện phép đâu.
Nàng Mơn bông trắng: Loại này có bản lá hẹp hơn và sống lá khuyết sâu hơn ở phần cuống lá. Màu sắc lá cũng không xanh tươi như màu của nàng Mơn bông đỏ. Nàng Mơn bông trắng chánh tông:
Cánh hoa trắng tự nhiên, dáng cứng cáp, không bị lai tạp, giao thoa Ngoài ra còn có nàng Mơn bông vàng. Nhưng loại này ngày càng trở nên hiếm hoi. Loại bông vàng tính năng rất yếu. Nếu trồng chung hoặc gần với bông trắng hoặc bông đỏ, chẳng bao lâu sau chúng chuyển sang màu trắng đỏ, bông vàng biến mất.
(Nàng Mơn bông trắng) Trong ba loại nàng Mơn phổ biến này, ta còn có Mơn ống bông trắng mà nhiều bạn thường gọi là ngải bún. Đây cũng là một họ của nàng Mơn.
Công năng chung của loại này là chiêu tài, quến khách, làm phép yêu, dầu ăn nói khiến người nghe cảm mến mà hợp tác. Trong các loại, thầy thường chọn hoa đỏ để cầu tài vì loại này có tính năng mạnh nhất. Còn loại hoa trắng thường dùng để làm dầu ăn nói, phép yêu. Nàng chuyền lá dài
Khác với loại lá ngắn, màu của nó sạm hơn, thân lá dài hơn. Nàng chuyền lá dài còn có tên gọi khác là xặc kụ, tức là cây cỏ tu, có tánh linh. Người Kh’mer Nam Bộ thường hay trồng nó trên mộ người mất. Người Việt thì lại trồng loại cây này để mong cầu tài vì thấy nó nhảy con tượng trưng cho việc phát lộc. Kỳ thực loại cây này có đặc điểm như cây sống đời, thường nhảy chuyền bụi ra ngoài đất. Năm nào thấy nàng chuyền nhảy bụi ra nhiều thì người Kh’mer tin là năm đó con cháu trong nhà có sanh đẻ thêm . Ngải nàng Sắc
Hình dáng như nàng Chuyền trơn nhưng màu lá xanh đậm hơn và thân lá dài hơn. Phần ngọn lá nhọn chứ không bầu hoặc tròn như các loại nàng khác. Sau này, hiếm thấy nơi nào trồng loại ngải này. Có lẽ vì ít người biết công dụng của nó và khi trồng cũng khó trổ hoa. Công năng của nàng Sắc cũng dùng cho việc vận tài đắc lợi. Nhưng nó hay hơn các loại nàng khác ở chỗ có thể giữ nhà, đẩy bớt ám khí từ những kẻ cạnh tranh phá hoại ngầm việc làm ăn buôn bán. Ngải nàng Chuyền Còn có tên gọi khác là dây nhện. Có lẽ người ta thầy nàng Chuyền trổ nhánh toả ra như mạng nhện mà đặt thành tên. Ngải nàng Chuyền có lá màu xanh đậm, chuyền sọc có lá xanh nhạt hơn, dài khoảng 15 cm, sống lá hằn sâu đến cuống. Nàng Chuyền có 2 loại chủ yếu: nàng Chuyền trơn và nàng Chuyền sọc.
Nàng Chuyền sọc Màu lá nhạt hơn nàng chuyền trơn. Sống lá có màu trắng, hai bên màu xanh, hoa trắng nhỏ như nàng Rù, có mùi thơm nhẹ lúc khuya và sáng sớm. Cũng như các loại ngải nàng, công năng của ngải nàng Chuyền chủ yếu là hoá giải bớt sự xui rủi, vận chuyển tài khí đến cho chủ nhân. Nàng Chuyền chỉ phù hợp khi ở trên cao, cho nên người ta thường trồng trong chậu và treo hai bên cửa. Nếu trồng ở chậu dưới đất, nàng Chuyền sẽ lấy hơi đất mà phát triển thân và lá hơn mức bình thường. Ngải nàng Rù
Còn có tên gọi khác là ngải Quến hay ngải Quyến. Nơi bán hoa kiểng gọi đây là Lan chi sọc. Lá nàng Rù thanh mảnh, ngắn khoảng 20cm, đầu lá nhọn, hai bên viền sọc màu trắng, ở giữa có màu xanh lục, không đậm bằng màu của nàng Mơn. Nàng Rù thường trồng trong chậu nhỏ. Người trồng thường đặt chậu lên cao theo các mức: đầu gối, thắt lưng, ngực, yếu hầu, chân mày hoặc qua khỏi đầu. Nàng Rù cần nhiều ánh sáng mặt trời và sự chuyển động của không khí. Cho nên, nếu để úng nước, rễ củ sẽ bị thối dần và héo lá đến chết.
Hoa ngải nàng Rù màu trắng, cánh hoa nhỏ, dáng thanh, có mùi thơm nhẹ vào sáng sớm. Nắng lên sẽ không còn nghe mùi nữa. Người ta thường treo hoặc đặt chậu ngải này ở hai bên cửa để vận chuyển tài khí cho gia chủ. Chức năng của nó là kêu gọi , rủ rê khách khứa vãng lai đến với cửa tiệm của chủ nhà, giữ cho gia chủ có một lượng khách bình ổn. Tuy nhiên, nàng Rù hay các loại nàng khác cũng thế, nếu gặp lúc chủ nhà gặp vận số quá đen, đem về trồng chẳng bao lâu nó sẽ bỏ đi, châu ngải nhanh chóng tàn úa cho dù chủ nhà chăm sóc rất cẩn thận.
Nàng Quạt có tên gọi dân gian là cây rẻ quạt. Rẻ quạt có tên khoa họcBelamcanda sinensis (L.) DC, họ lay ơn. Đây là một loại cây mọc hoang sống lâu năm; thân rễ mọc bò. Lá mọc thẳng đứng, bẹ lá xếp vào nhau xòe ra như cái quạt. Lá hình mác dài 20-40 cm, rộng 1,5-2 cm. Hoa có cán dài 20-40 cm, chia thành nhiều cành, mỗi cành mang một cụm hoa. Hoa có 6 cánh màu vàng cam đỏ điểm đốm tía. Quả nang hình trứng. Hạt hình cầu xanh đen bóng, đường kính 5 mm. Đông y xếp xạ can vào loại thuốc thanh nhiệt giải độc. Xạ can vị đắng, tính hàn, vào các kinh phế, can, có tác dụng trị đau hầu họng, trừ đờm, dịu ho. Xạ can hơi có độc. Người có tì vị hư hàn, trẻ em dưới 7 tuổi, phụ nữ có thai không được dùng.
Trong huyền môn, nàng Quạt được luyện để làm bùa yêu. Thầy luyện ngải dùng bông của nó để luyện vào dầu. Bông rẻ quạt có nhiều màu sắc, mỗi màu lại sử dụng cho một công năng yêu khác nhau. Ví dụ, bông vàng luyện phép yêu dành cho những người ở gần nhau, bông đỏ dành cho người không có điều kiện gần gũi, bông trắng dùng cho phép yêu mà không thể cưới … Tuy nhiên, có một điều mọi người cần nhớ. Khi luyện nàng Quạt, khí vận của người luyện gắn liền với sự sống của cây. Nếu cây bị chết, người trồng sẽ bị xui xẻo không cứu vãn nổi. * Nàng Mén Tên gọi khác là Nàng Mén hay chúa Mén. Loại ngải này dáng như ngải hổ nhưng nhỏ và thanh mảnh hơn. Không biết ở các vùng miền Đông Nam bộ và cao nguyên Bắc bộ có hay không, riêng ở miền Nam ngải Mén thường mọc phổ biến trên đỉnh núi Cấm – An Giang.
Ngải Mén rất kén thầy, phải là người có duyên mới bắt gặp được.
Công dụng của ngải Mén là cầu tài, cầu duyên và đặc biệt là làm phép yêu. Người ta thường trồng nàng mén trước cửa nhà để chiêu tài, trồng sau nhà gần cửa sổ phòng ngủ để cầu duyên và dùng rể, củ nàng Mén để làm ngải yêu. Nhiều bạn ngạc nhiên vì sao có nhiếu loại ngải yêu đến thế. Đó là công năng chung của các loại ngải nàng cơ mà. Tuỳ duyên và khả năng luyện của mình mà các thầy ngải chọn cho mình một loại ngải phù hợp nhất để luyện phép yêu. Tuy nhiên, theo ý kiến riêng của tôi, sở dĩ các thầy không luyện được ngải nàng Quạt hay nàng Mén vì không được người xưa chỉ dạy, hoặc không được ngải này chọn lựa. Khi nàng Mén trổ hoa, cánh hoa Mén có số lượng khác nhau. Số lượng khác, công năng cũng khác. Hoa 6 cánh dùng để làm dầu ăn nói, Mén có hoa 7 cánh dùng để làm phép chiêu tài đắc lợi vô cùng.
TAMTHUC