Quan niệm về thực dưỡng Thực dưỡng là cách nuôi sống bằng ăn uống. Mọi trường phái cổ, kim, Đông, Tây đều thống nhất: Ăn uống phải cung cấp đầy đủ năng lượng và nguyên liệu cho sự hoạt động và tái tạo của cơ thể. Nhưng ăn những gì và ăn thế nào thì các quan điểm, các trường phái lại không thống nhất, thậm chí trái ngược nhau. Chúng ta sẽ xét qua những quan điểm chính dưới đây:
1. Quan điểm của khoa học Tây phương trước đây:
a) Thức ăn phải cung cấp đầy đủ Calory: Trước kia người ta cho rằng Calory là năng lượng duy nhất cần phải cung cấp cho hoạt động của cơ thể và đã ấn định mức năng lượng rất cao (từ 2.300 – 3.000 Calory/ người/ ngày). Nhưng quan niệm này đã bị đảo lộn từ khi bác sĩ M.Ali (Pakistan) công bố kết quả nghiên cứu chế độ ăn uống của người Hunza; một nhóm dân cư có sức khỏe phi thường hầu như không bị bệnh, khẩu phần ăn hàng ngày của họ chỉ có 1.923 Calory! Quan niệm dinh dưỡng chỉ dựa trên một chỉ tiêu Calory đã trở nên lỗi thời, vì nó chỉ là một trong nhiều nhu cầu cần thiết của cơ thể; mặt khác, năng lượng cung cấp cho cơ thể không phải chỉ duy nhất bằng con đường ăn uống, mà bằng nhiều con đường khác như hấp thu qua da, qua hơi thở, đặc biệt qua các Luân xa… Ngày nay người ta đã thấy rõ được sự dư thừa Calory là nguyên nhân gây ra nhiều hậu quả tai hại cho sức khỏe: Trước tiên là bệnh béo phì, từ đó dẫn đến nhiều bệnh suy thoái khác như tiểu đường, tim mạch, ung thư v.v… Các thức ăn từ hạt cho nhiều Calory hơn: (xem bảng) Lượng calory trong một số thức ăn (Tính trên 100g nguyên liệu) Thức ăn thực vật Calory Thức ăn động vật Calory − Gạo lứt − Ngô hạt − Bo bo lứt − Kê − Lạc nhân − Đậu nành − Đậu xanh, đỏ − Vừng hạt − Thịt bò − Thịt lươn − Trứng gà (cả vỏ) − Trứng vịt (cả vỏ) − Tôm, tép (cả vỏ) − Cá (nói chung) − Sữa bò − Sữa dê
b) Thức ăn phải đủ các thành phần dinh dưỡng: Theo quan niệm này, cơ thể con người có những thành phần gì thì phải cung cấp đủ thành phần đó để bù lại cho sự hoạt động đã lấy đi. Từ đó người ta đã phân tích và xác lập chỉ tiêu dinh dưỡng cho từng loại khẩu phần ăn khác nhau. Các thành phần chủ yếu trong thức ăn phải bảo đảm là Protein, Hydrat carbon, Mỡ, Vitamin và khoáng. Cho mãi đến giữa thế kỷ này, do hạn chế của khoa Sinh hóa các nhà khoa học Tây phương đã đi đến kết luận: Protein động vật là thượng hạng, Protein thực vật là thức cấp. Hydrat carbon có chủ yếu trong bột, đường. Đường đơn dễ hấp thụ hơn đường kép và tinh bột. Lipid là thành phần quan trọng không thể thiếu được trong khẩu phần ăn.
Từ những kết luận ấy, người ta lao vào ăn thịt cho có nhiều Protein. Thế là hàng loạt, hàng loạt gia súc gia cầm vô tội đã nối đuôi nhau chết gục để được “mai táng” chung trong “nấm mồ” không đáy là dạ dày của loài người! Các xí nghiệp, nhà máy chế biến đồ hộp, làm bánh kẹo, sữa hộp… đua nhau mọc lên để tung ra thị trường, người ta đua nhau ăn đường, bánh ngọt, sữa hộp, bơ, mỡ đóng hộp… để cho đủ chất. Kết quả là : ngày càng có nhiều người mắc bệnh hơn, các bệnh nan y như tim mạch, ung thư, gan, thận, tiểu đường, thấp khớp, dạ dày, thần kinh, béo phì… xuất hiện ngày càng nhiều. Tây y nói chung và khoa dinh dưỡng học nói riêng đang đứng trước bế tắc nghiêm trọng, họ bắt đầu nhìn sang Đông phương và Đông Y Học Cổ Truyền để tìm lối thoát.
2. Quan điểm của cổ Đông phương học: Xuất phát từ quan điểm triết học trung tâm: Con người là vũ trụ thu nhỏ, con người và môi trường sống là thống nhất với nhau, vì vậy một cơ thể khỏe mạnh phải có nhịp sinh học cân bằng và phù hợp với chu kỳ biến đổi của môi trường thiên nhiên. Muốn duy trì trạng thái đó, điều quan trọng là phải sử dụng những thực phẩm thiên nhiên có sẵn tại địa phương. Chính thực phẩm là cầu nối giữa con người với vũ trụ! Vì vậy, mọi hoạt động kể cả ăn uống cũng phải tuân theo nguyên lý Thiên – Địa – Nhân hợp nhất. Khoa thực dưỡng Đông phương quan niệm và chủ trương như sau:
a) Định lý sinh vật học thứ nhất: Mọi sinh vật đều được nuôi dưỡng bằng năng lượng lấy ra từ vũ trụ, nguồn năng lượng đó tích luỹ đầu tiên trong cây xanh (rau, quả, củ, hạt…), khi ăn những sản phẩm đó, con người đã gián tiếp thu năng lượng từ mặt trời, tức là được nuôi dưỡng bằng loại thức ăn còn nguyên vẹn năng lượng cần cho sự sống. Nhiều thực vật mà ta ăn ngay khi chúng đang dồi dào sức sống như khả năng sinh trưởng, phát triển, nảy mầm… Thảo mộc đã hút các chất vô cơ để tổng hợp thành thức ăn hữu cơ, đó là một phép lạ về sự diễn tiến nhờ tác dụng tương hỗ của năng lượng thiên nhiên (phép lạ ấy chưa một phòng thí nghiệm hiện đại nào có thể bắt chước được). Ăn huyết nhục là thực hiện hai lần diễn tiến ấy: lần đầu ở con vật, lần thứ hai trong con người. Từ đó cho thấy tất cả chúng ta đều là con của mẹ thảo mộc. Không có thảo mộc, không một sinh vật nào tồn tại được trên trái đất này! Chúng ta hoàn toàn lệ thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào các sản phẩm của thảo mộc. Thảo mộc là thức ăn thượng đẳng. Đây là định lý sinh vật học và cũng là định luật thiên nhiên tối quan trọng thứ nhất.
b) Định lý sinh vật học thứ hai : Các nhà khoa học đều thống nhất nhận định: chế độ ăn uống của bất kỳ động vật nào cũng phải thích hợp với cấu tạo và sinh lý cơ thể chúng, chẳng khác gì một cỗ máy, một động cơ… được chế tạo ra để chạy bằng nhiên liệu nào thì phải được cung cấp chính nhiên liệu đó, nếu không nó sẽ thường xuyên hỏng hóc, hao mòn và chóng bị loại bỏ. Đây chính là định lý sinh vật học và cũng là định luật tự nhiên tối quan trọng thứ hai. Những nghiên cứu gần đây cho thấy các động vật ăn thịt có khả năng hầu như không giới hạn để giải quyết các chất béo bão hòa cho Clolesterrol. Trái lại các động vật ăn thảo mộc thì không thể có khả năng đó: nếu cho thỏ mỗi ngày ăn 200g mỡ thì chỉ sau hai tháng, mạch máu của nó sẽ bị mỡ đóng kết lại và bệnh xơ vữa động mạch xuất hiện.
3. Con người ăn thịt có phải là điều tự nhiên không? Các nhà khoa học biết rằng chế độ ăn của bất kỳ động vật nào cũng thích hợp với cơ cấu sinh lý của nó. Sinh lý của con người, các chức năng của cơ thể và hệ tiêu hóa hoàn toàn khác với những điểm này của các con vật ăn thịt sống. Các đặc điểm của con người trên mọi phương diện giống các động vật ăn trái cây như khỉ hay vượng và rất giống các động vật ăn cỏ và thật là không giống với các động vật ăn thịt nào như được trình bày rõ ràng trong bảng dưới đây. Hệ thống tiêu hóa, sự cấu tạo của răng và hàm, và các chức năng cơ thể của con người hoàn toàn khác với các động vật ăn thịt.
Như trong trường hợp của vượn người, hệ thống tiêu hóa gấp 12 lần chiều dài của cơ thể; da của chúng ta có hàng triệu lỗ chân lông nhỏ để thoát hơi nước và làm mát cơ thể bằng cách thoát mồ hôi; chúng ta uống nước bằng cách hút giống như các động vật ăn rau quả khác; răng và cấu trúc hàm của chúng ta thuộc loài ăn rau quả và nước bọt của chúng ta có tính kiềm và chứa men amylase để tiện tiêu hóa ngũ cốc. Do cấu trúc cơ thể và hệ thống tiêu hóa của con người, cho thấy rằng chúng ta hẳn phải đã tiến hóa hàng triệu năm, sống bằng trái cây, quả hạch (trái hồ đào), ngũ cốc và rau. Ngoài ra, thay vì ăn thịt sống như tất cả các loài động vật ăn thịt sống, con người đem luộc, nướng hoặc rán thịt lên và làm cải dạng thịt đi với nhiều loại nước sốt và gia vị, để làm cho nó không còn trạng thái sống của nó nữa. Một nhà khoa học giải thích điều này như sau: “Một con mèo thèm nhỏ rãi khi ngửi thấy mùi một miếng thịt sống chứ không thèm chút nào khi thấy mùi trái cây. Nếu con người có thể thấy khoái, nhảy tới vồ một con chim, xé đôi chân, đôi cánh còn sống nguyên của nó với đôi răng hàm và hút máu nóng thì mới có thể kết luận rằng thiên nhiên phú cho con người bản năng ăn thịt. Mặt khác, một chùm nho xum xuê làm cho con người chảy nước miếng và ngay như khi không đói họ cũng ăn trái cây vì trái cây rất ngon”. Các nhà khoa học và các nhà tự nhiên học, kể cả nhà tiến hóa luận vĩ đại Charles Darwin cũng đồng ý rằng, những con người đầu tiên là những người ăn trái cây và rau, và suốt trong quá trình lịch sử, hình thái cấu trúc của chúng ta vẫn không hề thay đổi. Nhà khoa học Thụy Điển Van Linne nói rằng: “Cấu trúc của con người kể cả bên ngoài lẫn bên trong, so sánh với các động vật khác cho thấy rằng trái cây và các loại rau ngon là nguồn thức ăn tự nhiên của họ”. Vì vậy chúng ta thấy rõ qua các cuộc nghiêu cứu khoa học là ở cả các mặt sinh lý, cấu trúc cơ thể và bản năng, con người hoàn toàn phù hợp với một chế độ ăn trái cây, rau, quả hạch (trái hồ đào) và ngũ cốc.
Bảng so sánh cấu tạo cơ thể của động vật ăn thịt, con người và động vật ăn trái cây, thảo mộc.
4. Những bằng chứng thực tế: Thống kê điều tra của các tổ chức khoa học và y tế thế giới đều cho thấy:
a) Những cộng đồng cư dân chỉ ăn thức ăn thực vật luôn luôn có sức khỏe rạng rỡ, tuổi thọ cao: Người Hunza ở Pakistan, người Kogi ở Columbia, bộ lạc Otomi (Mexico) và một số thổ dân ở châu Á, châu Phi luôn có rất ít thậm chí hầu như không có người bị bệnh tật, nhiều người thọ trên 100 tuổi mà vẫn khỏe mạnh, hãn hữu có cụ ông 140 tuổi, cụ bà ngoài 80 tuổi vẫn lấy vợ / chồng và còn sinh con!
b) Ngược lại, các dân tộc chuyên ăn thịt hoặc ăn rất nhiều thịt: Luôn có tỷ lệ mắc bệnh rất cao về tim mạch, ung thư, đặc biệt ung thư đường tiêu hóa, tuổi thọ trung bình rất thấp. Điển hình là người Eskimo ở Bắc cực do không có rau, thức ăn chủ yếu là thịt và mỡ nên họ già đi rất nhanh, mắc nhiều bệnh tật, tuổi thọ trung bình là 27 tuổi rưỡi (!). người Kirgese sống du mục bằng nghề săn bắn ở miền Đông nước Nga, rất hiếm có người sống được đến 40 tuổi (!).
5. Nhận xét : Phải chăng những cộng đồng người ăn thực vật đã sử dụng thức ăn phù hợp với cấu tạo và sinh lý của cơ thể, còn những cộng đồng người ăn quá nhiều thịt là đã sử dụng thức ăn không phù hợp với cấu tạo và sinh lý của chính mình, chẳng khác nào họ đã dùng dầu hỏa để chạy động cơ được chế ra để chạy bằng xăng (!). Tạo hóa đã hào phóng trao cho mỗi người một cỗ máy tinh vi và quý giá nhất trên hành tinh này để họ làm chủ. Ai luôn chăm lo, bảo quản và sử dụng đúng nhiên liệu mà tạo hóa đã định khi sinh ra nó thì cỗ máy đó sẽ chạy tốt, tuổi thọ cao.
Ngược lại, không chịu chăm sóc bảo quản, không dùng đúng nhiên liệu, máy sẽ luôn hỏng hóc và sớm bị đưa ra bãi tha ma phế thải, thế là họ đã hủy hoại một công trình tuyệt vời của tạo hóa, tự hủy hoại chính mình… đó chẳng phải là một trọng tội hay sao? “Ăn là đã hy sinh đi một phần nào đó của cây xanh huyền diệu để tạo ra một mầm sống mới. Nếu con người vì ngu muội hay tự cao tự đại, vô tình hay hữu ý, ăn uống trái với trật tự thiên nhiên chi phối vũ trụ, thì chính điều đó được gọi là tội tổ tông trong kinh thánh vậy!” (Ohsawa).“Ăn không đúng thức ăn, chúng ta không còn là “Người” theo đúng nghĩa của từ đó” (A.Acarya).
Khoa học từ lâu đã chứng minh được rằng con người chỉ là loài ăn thực vật
Sự cấu tạo của cơ thể chúng ta không thích hợp với việc ăn thịt. Điều này đã được khoa học chứng minh. Ngoài ra vấn đề này cũng được nhắc tới trong 1 SGK Sinh học ở nước ta. Như vậy việc con người ăn thịt là phản tự nhiên. Ăn thịt chẳng qua là để thoả mãn dục vọng của con người mà thôi. Và cái dục vọng này làm hại đến cả con người lẫn chúng sinh.
.
1.Sự cấu tạo cơ thể chúng ta không thích hợp cho việc ăn thịt . Điều này đã được bác sĩ G.S Hungtingen tại Đại Học Columbia chứng minh qua bài thuyết trình về sự so sánh cơ thể học . Ông đã nêu lên rằng loài động vật ăn thịt có ruột non và ruột già ngắn hơn , đặc biệt là ruột già thì thẳng và trơn . Trái lại , loài động vật ăn thực vật có ruột non và ruột già dài hơn . Vì thịt có ít chất sợi và nhiều chất đạm nên sự tiêu hóa không cần mất mất nhiều thời gian , do đó ruột của loài ăn thịt ngắn hơn ruột của loài động vật ăn thực vật .
Ruột già và ruột non của loài người thì dài cũng giống như những loài động vật ăn thực vật khác . Tổng cộng chiều dài của ruột già và ruột non vào khoảng 28 bộ (8,5 thước). Ruột non thì gấp lại thành nhiều lớp , và thành ruột thì có ngấn , không trơn láng . Vì chúng dài hơn ruột của loài động vật ăn thịt , nên thịt ăn vào sẽ ở lại trong ruột của chúng ta lâu hơn , kết quả là thịt có thể bị hư thối và sinh ra chất độc . Những chất độc này gây hại ruột , và đồng thời cũng khiến cho gan , cơ quan bài tiết chất độc , phải làm việc cực nhọc hơn . Việc này làm cho gan nở lớn , và gây hại cho gan .v.v..
Cuộc sống của đa số loài vật rất ngắn và loài vật có hầu hết tất cả các bệnh tật mà con người có. Không chừng những bệnh tật của con người đều do từ việc ăn thịt những con vật bị bệnh mà sinh ra. Nếu miếng thịt chúng ta ăn hàng ngày lấy từ những con vật bị bệnh gì thì chúng ta sẽ có nhiều nguy cơ mắc bệnh đó.
Nhiều người cho rằng thịt được bảo đảm tinh khiết và an toàn vì đã có sự kiểm nghiệm tại các lò sát sinh . Nhưng vì có quá nhiều gia súc , lợn , gà … bị giết để bán hàng ngày cho nên thật sự khó có thể kiểm soát hết được . Thử nghiệm một miếng thịt để tìm dấu vết bệnh ung thư đã là khó rồi , nói gì đến việc thử nghiệm cả một con vật . Hiện nay , kỹ nghệ thịt chỉ cắt bỏ cái đầu con vật khi chỗ đó bị bệnh , hay cắt khúc chân nếu chỗ đó bị hư . Chỉ những phần xấu là được cắt bỏ , những phần còn lại vẫn được đem ra bán . Kể cả những con vật mà bạn tự nuôi, thì chúng vẫn có thể mắc bệnh khi nào không biết, và những bệnh đó có thể rất khó phát hiện. Cũng như ở con người vậy, có những bệnh mà rất hay gặp nhưng nếu không nói ra thì không ai biết là người đó bị bệnh, huống chi là con vật, làm sao nó có thể nói cho con người biết rằng nó đang bị gì.
Nhà trường chay nổi tiếng, bác sĩ J. H. Kellogg, có nói: “Khi chúng ta ăn chay, chúng ta không còn phải lo nghĩ là con vật chúng ta đang ăn đã chết vì bệnh gì . Điều này khiến bữa ăn càng ngon hơn”.
Ăn chay còn có lợi ích là tránh và thậm chí là chữa khỏi được nhiều bệnh tật do các món ăn động vật gây ra như bệnh tim, ung thư,…
Một nhà giải phẩu xuất chúng người Mỹ , bác sĩ Miller đã hành nghề y khoa trong suốt bốn mươi năm qua tại Formosa đã thành lập một bệnh viện trong đó tất cả các bữa ăn cho nhân viên và bệnh nhân đều là những thức ăn chay . Ông nói : “Chuột là loài vật có thể sống bằng cả hai cách ăn chay và ăn thịt . Nếu có hai con chuột được nuôi riêng biệt , một con ăn thịt và một con ăn chay , chúng đều tăng trưởng như nhau , nhưng con chuột ăn chay sống lâu hơn và sức đề kháng bệnh tật mạnh hơn . Hơn nữa , nếu hai con cùng đau , thì con chuột ăn chay bình phục nhanh hơn”. Ông nói thêm rằng : “Khoa học hiện đại càng ngày càng mang lại cho chúng ta những thuốc men tốt hơn , nhưng thuốc men chỉ có thể chữa bệnh mà thôi , thực phẩm mới duy trì được chúng ta”.
Người ta thường có sai lầm rằng người ăn thịt mạnh hơn người trường chay, nhưng cuộc thí nghiệm của giáo sư Irving Fisher thuộc đại học Yale với 32 người trường chay và 15 người ăn thịt đã chứng minh rằng những người trường chay có sức chịu đựng bền bỉ hơn những người ăn thịt. Ông cho tất cả những người này đưa thẳng tay ra cho đến khi mỏi thì thôi. Kết quả thật rõ ràng, trong số những người ăn thịt có 2 người đưa tay ra được từ 15 đến 30 phút; tuy nhiên trong số 32 người trường chay, có 22 người đưa tay ra được từ 15 đến 30 phút, 15 người trên 30 phút, 9 người trên 1 giờ, 4 người trên 2 tiếng và 1 người đưa tay ra được hơn 3 tiếng đồng hồ.
Nhiều lực sĩ chạy xa thường theo dinh dưỡng chay một thời gian trước ngày tranh giải. Bác sĩ Barbara More, một chuyên gia trị liệu bằng phương pháp trường chay đã hoàn tất cuộc chạy đua một năm mười dặm trong 27 tiếng 30 phút. Một người phụ nữ 56 tuổi, nhưng đã phá kỷ lục của những người trẻ tuổi nam giới. Bà nói: “Tôi muốn làm một thí dụ điển hình để cho mọi người thấy rằng một người theo dinh dưỡng chay hoàn toàn sẽ có một cơ thể khoẻ mạnh , trí óc minh mẫn và đời sống trong lành”.
Khoa học đã chứng minh được sự liên quan giữa việc dùng thịt cũng như những thực phẩm có chứa nhiều chất mỡ từ động vật và các bệnh tim , ung thư ngục , ung thư ruột già , bệnh đột quỵ . Chế độ trường chay đã ngăn ngừa được nhiều bệnh và đôi khi còn chữa khỏi các bệnh như sạn thận , ung thư tuyến tiền liệt , tiểu đường , đau dạ dày , sỏi mật , rối loạn tiêu hoá , phong thấp , nướu răng , mụn , ung thư lá lách , ung thư bao tử , thiếu đường trong máu , táo bón , viêm túi ruột già , cao huyết áp , loãng xương , ung thư tử cung , trĩ , béo phì và suyễn .
2. Quan điểm của trường phái khoa học tâm linh.
Mình xin lý giải tác hại của ăn thịt dựa theo quan điểm của khoa học tâm linh: Khi 1 con vật bị giết, những tín tức hận thù của nó vẫn tồn tại trong từng miếng thịt, tiết, nội tạng,…Khi con người ăn những thứ này vào, thì những tín tức hận thù này sẽ lưu lại trong cơ thể người, từ đó sinh ra sự nóng giận. Điều này không chỉ đúng với con người, mà còn đúng với loài vật nữa. Các bạn đã biết những loài ăn thực vật đều rất hiền lành. Trong khi những loài ăn tạp đều có phần hung dữ. Còn những loài ăn thịt thì là hung dữ nhất. Con người cũng tương tự, những người ăn chay tính khí thường hiền hòa hơn những người ăn thịt. Xưa nay con người vẫn hay thắc mắc vì sao bản thân mình lại không kiềm chế được sự nóng giận, mà đâu có ngờ rằng nguyên nhân của sự nóng giận nằm ngay trong chính những sản phầm của sát sinh.
Bạn cứ thử ăn chay một thời gian dài đi, rồi bạn sẽ thấy bản thân không còn hay nóng giận như trước nữa.
3. Nhìn lại lịch sử nguyên thủy của nhân loại.
Bàn tay của loài người không có móng vuốt sắc bén nên chỉ dùng để hái trái, dùng công cụ để sản xuất và thu hoạch các sản phẩm từ thực vật để tạo cái ăn. Trong khi loài động vật ăn thịt tứ chi có móng vuốt rất bén nhọn và rất mạnh mẽ để vồ mồi và xé thịt.
Loài người nguyên thủy vốn là động vật ăn thực vật. Về sau do phát sinh cháy rừng nên con người mới biết mùi vị của thịt nướng, từ đó sinh ra tâm thèm thịt. Và dường như loài người biết hung dữ kể từ khi biết giết động vật để làm thức ăn.
4. Tiếp tục những bằng chứng sinh học chứng minh cơ thể người không thích hợp với việc ăn thịt.
Hàm răng của loài người giống như hàm răng của loài ăn thực vật. Răng của loài người được cấu tạo môt cách đặc biệt giống như răng của các loài động vật ăn thảo mộc, dùng để nghiền và nhai nát các thức ăn. Loài người và loài động vật ăn thảo mộc không có răng cửa và răng nanh bén nhọn và đủ sức mạnh như loài động vật ăn thịt, nhưng có răng hàm và xương quai hàm để nhai theo cử động chiều ngang và qua lại.
Trong bao tử của loài động vật ăn thịt, dịch tiêu hóa chứa đến 10 lần lượng acid clohydric nhiều hơn ở trong bao tử của loài động vật ăn rau quả và loài người. Sự khác biệt chủ yếu trong bộ phận tiêu hóa của loài động vật ăn rau quả và loài người với loài động vật ăn thịt là đường ruột, nơi thức ăn được tiêu hóa để biến thành dưỡng chất rồi được hấp thụ vào máu.
Sau khi màng ruột đã tinh lọc lấy chất dinh dưỡng rồi, chất cặn bã còn lại sẽ tích lũy lâu trong cơ thể và sẽ sinh ra nhiều độc tố, nguyên nhân và mầm móng gây ra các bệnh tật nguy hiểm.
Để giúp loài thú có thói quen ăn thịt ít bị các chứng bịnh hiểm nghèo, đường tiêu hóa của chúng chỉ dài gấp 3 lần chiều dài của cơ thể. Trong khi đó đường tiêu hóa của loài người và loài động vật ăn rau quả thì dài gấp 6 lần chiều dài của thân thể. Vì thế chất cặn bã ở trong ruột của loài thú ăn thịt sẽ được bài tiết ra ngoài nhanh chóng hơn, khỏi bị nhiễm trùng vi sự thối rã của thức ăn. Trong khi đó chúng sẽ ở lại trong ruột của loài người và loài động vật ăn cây cỏ lâu hơn để tiêu hóa được hoàn chỉnh, nếu ăn nhiều thịt sẽ sinh ra độc tố nhiều hơn.
TAMTHUC