Ma Phương :: Tinh Hoa Đông Phương
loi-phat-day-ve-cuoc-song-con-nguoi Lời Phật dạy về cuộc sống con người
Sunday, 31/05/2015 10:00 am
Ma Phương :: Tinh Hoa Đông Phương

Ma Phương :: Tinh Hoa Đông Phương

Lời Phật dạy về cuộc sống rất ỹ nghĩa mà các bạn nên ghi nhớ để thực hiện, cuộc sống có rất nhiều điều kỳ diệu hãy học theo chân lý của đức Phật nhé!

KHỔ ĐAU KHÔNG CHỪA MỘT AI

Đạo Phật nói cuộc đời là biển khổ mênh mông không có ngày thôi dứt, vì nhân loại lúc nào cũng đấu tranh giành giựt, chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên để rồi giết hại lẫn nhau, lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu. Con người đau khổ bởi sinh-già-bệnh-chết, tâm đau khổ vì phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.

Trong gia đình khổ vì phải làm việc vất vả, nhọc nhằn để lo cơm áo gạo tiền, rồi thương yêu xa lìa khổ, oán ghét mà gặp nhau hoài lại càng khổ hơn, mong cầu mà không được cũng khổ, thân ốm yếu hoặc sung mãn quá cũng khổ.

Nghèo cùng với bao nỗi thiếu thốn, khó khăn, khổ là lẽ đương nhiên nhưng người giàu sang phú quý vẫn có những nỗi khổ niềm đau riêng. Ngoài xã hội lại khổ vì đấu tranh, giành giựt, hơn thua, phải trái, cứ như thế oán giận thù hằn ngày càng thêm chồng chất. Với hoàn cảnh thì phải khổ về thiên tai, sóng thần, động đất, bão lụt, hạn hán, mất mùa, dịch bệnh tràn lan vì sự ngu si mê muội của con người.

Chúng ta thường nghe người đời than thở: Trời ơi, tại sao tôi khổ quá vậy nè? Ông trời ngó xuống mà coi, làm sao cho tôi hết khổ đây trời ơi! Người đời thường trách đất kêu trời, than khổ đủ thứ chuyện vì nghèo khó, vì bệnh tật, vì thất nghiệp, vì thất tình, vì mất mát, vì chia lìa. Tuy nhiên, cũng có không ít người giàu có, khỏe mạnh, có sự nghiệp, có tình yêu nhưng vẫn kêu khổ, khổ ơi là khổ. Người già than khổ đã đành, người trẻ cũng lại than khổ. Người ngu dốt than khổ, kẻ thông minh cũng than thở đủ thứ chuyện. Nói tóm lại, già trẻ, lớn bé mỗi người đều có nỗi khổ niềm đau riêng.

Khổ là sao?

Khổ là sự khó chịu, bất như ý, không toại nguyện, là trạng thái tâm lý trái ngược lại với vui vẻ, sung sướng, hạnh phúc, thoải mái, dễ chịu, hài lòng, lạc quan và thỏa mãn… Nỗi đau đớn, buồn phiền, lo lắng, sợ hãi, bất mãn, thất vọng, tuyệt vọng, đau nhức… đều được xem là khổ.

Chúng ta thường nghe nói “có thân là có bệnh”, hay nói cho rõ ràng hơn “có thân phải khổ vì thân”. Chính vì thế, ta cũng đừng trách tại sao phải như thế, con người đều khốn khổ vì mang thân bệnh.

“Khổ vì thân” có hai loại chính: bệnh khổ và tai nạn khổ, còn vô số cái khổ khác cũng làm cho con người ta điên đảo, từ chuyện nhức đầu, đau răng, cảm mạo cho đến những bệnh nan y do ảnh hưởng ô nhiễm của môi trường độc hại gây ra.

Như vậy, ai làm người cũng khổ vì thân hay bệnh khổ là điều tất yếu trên thế gian này. Nhưng, những cái khổ đó chưa quan trọng bằng cái khổ bởi vô minh trong nhiều đời gây ra, có nghĩa là không phân biệt được đúng sai, chánh tà, phải quấy, tốt xấu.

Một người bình thường nhìn thấy người khiếm thị hoặc tật nguyền, họ nghĩ rằng nạn nhân chắc là thống khổ lắm. Nếu nạn nhân đó bị bẩm sinh thì họ cũng có cảm giác bình thường như bao người bình thường khác về thân thể, còn người đang mù bỗng nhiên được chữa trị làm cặp mắt sáng lại thì có cảm giác sung sướng hơn người đang bình thường.

lời phật dạy

Chính vì vậy, một người đang sáng mắt và một bệnh nhân được chữa lành sáng mắt có cảm thọ khác nhau là do sự tác động tâm lý mà có. Nếu thân vật lý không bị tác động bởi trạng thái tâm lý thì cái gọi là khổ của thân vật chất chưa hẳn là thật khổ.

Cuộc sống của chúng ta có quá nhiều nỗi khổ niềm đau luôn luôn bám víu vào thân phận con người; khổ về bản thân như đau ốm, bệnh tật, già nua; khổ vì người thân trong gia đình như bị mất mát, chia lìa; khổ vì vợ chồng không cảm thông và tha thứ cho nhau nên dẫn đến ly dị; khổ vì con cái bụi đời, nghiện ngập, hút sách, bê tha, hư hỏng; khổ vì phải làm việc nhọc nhằn, vất vả để lo cho gia đình người thân như lo ăn, lo uống, lo mặc, lo chỗ ăn ở, lo nghèo giàu và đủ thứ chuyện khác; khổ vì hoàn cảnh như chiến tranh, thiên tai, lũ lụt, hạn hán, mất mùa, dịch bệnh; khổ vì thi rớt, vì thất tình, vì của cải bị phá sản, vì thua bài bạc bán hết gia tài, vì bị giựt hụi mất hết một số tiền lớn v.v… Luận về những nỗi khổ ở đời thì bất cứ ai cũng có những nỗi khổ niềm đau của riêng mình. Thực khó mà kể ra cho hết được.

Khổ được biểu hiện qua phần thân và tâm. Cơ thể đau nhức là nỗi khổ ở thân này, chẳng hạn như cảm giác đau đớn do bệnh tật hay tai nạn và cảm thấy khó chịu do nóng lạnh, đói khát. Tâm đau khổ như bất mãn, phiền muộn, buồn rầu, lo lắng, sợ hãi, bất an bởi những thứ không được hài lòng vừa ý.

TRÊN ĐỜI NÀY ĐIỀU GÌ LÀ KHỔ NHẤT?

Khi Phật còn tại thế, đệ tử lớn là A Na Luật cùng 4 vị đồng tu mới ngồi lại thảo luận với nhau về đề tài “trên đời này điều gì là khổ nhất.”

Một thầy tỳ kheo nói: “Con người khổ nhất là do lòng tham dục phát sinh quá đáng, khi sự tham dục không được thỏa mãn, con người sẽ cảm thấy khổ đau. Nó có thể dằn vặc, hành hạ mình ghê gớm. Nhiều người chịu không nỗi phải quyên sinh tự tử.”

Thầy tỳ kheo khác lại nói: “Trong cuộc sống, khổ nhất là không được ăn uống no đủ, sự thèm khát trong thiếu thốn làm cho con người ta khốn khổ không gì có thể so sánh được.”

Thầy thứ ba không chịu nên nói: “Con người khổ nhất là khi tức giận, oán thù một ai đó, mặt mày trông dữ tợn, hiện tướng bốc lửa từ ánh mắt, ngay khi sân giận đó đã làm cho tâm khổ não bất an.”

Một thầy khác lại nói: “Con người khổ nhất là nỗi sợ hãi trước các loài cầm thú hoặc sự khủng bố của con người, không có một giây phút nào cảm thấy bình an.”

Đúng lúc ấy, Phật đang trên đường hoằng hóa độ sinh đã ghé lại thăm các đệ tử của mình. Mỗi thầy tỳ kheo bèn trình bày quan điểm “cái gì là khổ nhất” với Ngài. Phật nghe xong mới nói: “Các con đều chưa nói được cái gốc của khổ, tất cả những điều các con nói chỉ đúng một phần thôi, giống như người mù sờ voi vậy, mỗi người đều chỉ nói đúng một phần.

Trong số các con, có người từng là chim bồ câu tái sinh nên mới nói rằng tham dục là khổ, có người kiếp trước làm con chim ưng bị đói khát nên cho rằng sự đói khát là khổ, có người là rắn độc tái sinh nên nghĩ sân hận là khổ não, có người kiếp trước là thỏ nên luôn cảm thấy sợ hãi là khổ. Tất cả từ con người cho đến loài có tình thức đều phải chịu sự chi phối của sinh-già-bệnh-chết nên đau khổ vô cùng tận không luận là giàu nghèo hay sang hèn.”

Chúng ta thường bắt gặp những hình ảnh giản dị của người nông dân qua cuộc sống hàng ngày như người chồng dựng vội cái cày, cái cuốc để uống nước chè, trong khi bà vợ ném vội nắm thóc cho đàn gà rồi bước vào chuồng heo để tẩy uế và tắm mát cho chúng.

Trong những vật nuôi trong nhà, trâu, bò, ngựa, heo, chó, mèo, gà là những con vật không thể thiếu ở nông thôn. Họ lý giải chức năng của chúng thật chặt chẽ, rõ ràng. Con trâu, con bò cày ruộng. Con ngựa kéo xe, con chó giữ nhà, con mèo bắt chuột, con gà chạy lăng xăng, bươi mỗ kiếm chút đồ thừa thải.

Ngày xưa, có gia đình nọ làm nghề nông, trong nhà có nuôi một con trâu, hai mẹ con nhà ngựa, một con chó, một đàn heo cùng với đàn gà dăm ba chục con. Mỗi ngày, trâu ra đồng cày bừa từ sáng sớm đến chiều tối mới về, còn chó ta chỉ việc nằm phè ở nhà dòm chừng trong ngoài trước sau.

Một hôm, trâu đi cày về thấy chó nằm dài trước cửa nhà, mắt nhắm lim dim trông thật nhàn hạ, thoải mái, sung sướng làm trâu ganh tị, tức tối muốn điên lên nên bèn nói lời mỉa mai: “Chú chó nhà mày thật hạnh phúc quá, ăn no rồi chỉ loanh quanh, lẫn quẩn trong xó nhà, lúc nào làm biếng thì nằm phè ra đó. Mày thật là có phước nhất nhà này”.

Chó nhà ta nghe trâu nói lời hậm hực, nặng nhẹ thì buồn bã trong lòng, nghĩ rằng trâu tuy to xác nhưng không có chút trí tuệ nào nên mới phát ra những lời lẽ so đo, ganh tỵ như thế.

Chó bèn nói với trâu rằng: “Này anh trâu ơi, anh không thể nào hiểu hết hoàn cảnh của tôi đâu, tôi nào có sung sướng, hạnh phúc gì như anh tưởng. Anh tuy làm lụng vất vả, nhọc nhằn ngoài đồng ruộng nhưng còn có thời gian để nghỉ ngơi. Còn tôi, tuy nằm canh cửa giữ nhà trông có vẻ nhàn hạ hơn anh, nhưng thật ra tôi rất mệt mỏi và căng thẳng lắm. Tôi tuy nằm lim dim mà trong lòng lúc nào cũng lo sợ phập phòng, cứ phải nơm nớp không yên vì sợ mất mát đồ đạc của ông bà chủ, không dám lơ là hay chểnh mảng một chút nào. Nếu ngủ quên hay sơ ý để xảy ra mất trộm thì tôi khó mà sống được yên thân.

Đêm đêm, trong khi mọi người yên giấc ngủ ngon lành thì tôi có được nghỉ ngơi gì đâu, tôi phải vểnh lỗ tai lớn ra để nghe ngóng, dòm ngó động tĩnh trước sau đề phòng kẻ gian, hễ nghe có tiếng động gì thì phải sủa to lên để báo cho chủ nhà hay biết. Hôm nào hai vợ chồng chủ nhà vui vẻ thì tôi được cho ăn no đủ một tí, khi hai người giận nhau hay buồn bực chuyện gì thì họ đều trút đổ lên đầu tôi hết. Họ đánh, họ đá, xua đuổi, chửi mắng tôi như là con chó ghẻ vậy đó. Mỗi khi gia đình, người thân của họ đến chơi mà tôi không biết, tôi sủa thì họ chửi tôi là đồ ngu dốt, “bộ mày mắt đui hả?” Bạn bè họ đến chơi thì không sao, còn bạn bè tôi đến chơi thì bị họ chửi rủa, đánh đập đuổi đi. Anh trâu à, anh thử suy nghĩ coi, anh và tôi ai sướng hơn ai?”.

Trâu nhà ta nghe nói vậy mới hiểu được hoàn cảnh khổ tâm của chó nên trong lòng rất ăn năn và hối hận vô cùng bởi những lời nói trịch thượng của mình.

Trâu ta liền xin lỗi chó: “Đúng là mày còn vất vả, khổ sở hơn tao rất nhiều. Tao với mày tuy ở chung một nhà mà chưa có một lần nào được trò chuyện, tâm tình nên mới hiểu lầm mà trách móc lẫn nhau. Bây giờ tao đã hiểu hết nỗi khổ, niềm đau của mày rồi. Tao nghe mày nói tao mới biết, cả hai chúng ta đều khổ cả, chẳng ai sung sướng gì đâu”.

Khi ấy, chó ta quay sang đàn gà đang chạy đùa tung tăng bươi móc, tìm kiếm thức ăn mà ganh tỵ: “Đúng là lũ gà sướng thật, vừa mới mở mắt ra đã được bà chủ cho ăn bữa sáng bằng những hạt thóc được mẹ con nhà ngựa chở từ ngoài đồng về.” Chó ta thèm chảy nước miếng khi thấy đàn gà vừa kiếm ăn, vừa đùa giỡn. Nó vừa than thở, vừa ước ao phải chi cũng được sinh làm gà thì sướng biết mấy.

Chú gà trống đầu đàn nghe chó ước vậy bèn quay sang nói rằng: “Này anh chó, chúng tôi chả sung sướng gì đâu. Tuy được ông bà chủ cho ăn và còn có nhiều thức ăn khác chung quanh sân vườn nhà nhưng chúng tôi cũng khổ lắm anh ạ. Ông chủ tôi nuôi gà trống để đi đá độ cho thỏa mãn thú tính tàn nhẫn, kích bác chúng tôi tàn sát nhau để vui trong sự oán giận, thù hằn của chúng tôi. Con người nuôi gà để lấy trứng bán và ăn, lúc nào họ thèm khát thì cắt cổ, nhổ lông, mần thịt chúng tôi để ăn uống, vui chơi thỏa thích. Thật ra chúng tôi cũng khổ lắm anh chó ơi!”

Trâu đang nghe lũ gà phân trần với chó thì tự nghĩ “rốt cuộc con người nuôi các loài vật chỉ với mục đích gánh vác bớt công việc nặng nhọc và làm thức ăn nhằm bồi bổ thân xác theo quan niệm trời sinh ra vạn vật. Thật là quá tàn nhẫn!”

Đang nghĩ vẩn vơ, trâu bỗng nghe tiếng chim hót ríu rít trên cành cây cao. Nó nhìn lên thấy các chú chim vui đùa bên nhau mà thầm ước ao được như thế rồi ngậm ngùi thương xót cho số phận của mình, chó và bọn gà sao quá khổ sở, nhọc nhằn. Trâu tự than thở: “Bọn chim trời, cá nước thật là diễm phúc và sung sướng làm sao. Chúng có thể tự do, tự tại bay lượn, bơi lội đó đây mà không bị ngăn ngại, không bị ai giam cầm, quản thúc, không phải làm việc nhọc nhằn, vất vả, không phải chịu nỗi khổ, niềm đau của kiếp làm tôi mọi cho con người. Giá mà chúng ta có được cuộc sống vui vẻ như các loài chim, cá thì vui sướng, hạnh phúc biết chừng nào.”

Khi ấy, một chú chim nghe lời trâu than vãn bèn đáp lên lưng trâu mà nói rằng: “Bác trâu ơi, bác đâu có biết chúng cháu cũng chả sung sướng gì như bác nghĩ. Tuy loài chim chúng cháu không phải trông nhà giữ cửa, không phải đi cày ruộng, không phải chịu cảnh tù túng, bó buộc, kèm kẹp của con người nhưng chúng cháu cũng có nỗi khổ, niềm đau riêng của mình bác trâu ạ.

Mạng sống của chúng cháu luôn bị đe dọa từng ngày, chúng cháu lo sợ các chú chim lớn rình mò chụp bắt đã đành, lại còn lo sợ những kẻ thợ săn có thể bắn chết chúng cháu bất cứ lúc nào không hay. Tổ của chúng cháu làm rất khó khăn, vất vả biết bao nhưng chưa chắc ở được lâu ngày vì sự phá hoại của con người. Trứng do chúng cháu sinh ra chưa kịp nở thì đã bị con người lén lấy mất.

Loài người lúc nào cũng biết thương yêu, chiều chuộng con cái của mình nhưng nào biết thương hại con của các loài vật. Các chú, các bác chỉ bị hành hạ làm lụng khổ sở, nhọc nhằn đôi chút, còn chúng cháu lúc nào cũng sống trong lo âu, sợ hãi vì hay bị loài người tìm cách tước đoạt mạng sống.

Các bác biết đó, đâu phải chết rồi là được yên thân, loài người còn tàn nhẫn hơn khi đem chúng cháu đi nhổ lông, vặt cánh, xẻ thịt, nấu nướng, làm đủ các món thức ăn khiến thân thể chúng cháu tan nát, rã rời. Loài người ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ có trí khôn nên mặc tình sát sinh hại vật, nào có biết thương yêu, tôn trọng sự sống của muôn loài.

Các chú, các bác có cái khổ của các chú, các bác, còn chúng cháu cũng có cái khổ của chúng cháu, sống mà cứ phập phòng nơm nớp lo sợ trong từng phút giây, sống được ngày nào thì mừng cho ngày đó. Thật ra, trên cõi đời này không có loài vật nào được sung sướng cả, nếu có cũng phải trả một giá rất đắc đối với loài người vô liêm sỉ đó.”

Bầy cá đang ở dưới nước nãy giờ nghe bác trâu nói mình sung sướng, thoải mái quá nên cũng không đồng ý mà vội vàng phân bua: “Dạ, xin thưa với các bác, loài cá chúng con cũng không sung sướng, hạnh phúc gì lắm đâu. Nhà cá chúng con thường bị loài người giăng lưới đánh bắt, mỗi lần bị sát hại chết đến cả hàng ngàn, hàng vạn con, không sao kể hết tội lỗi của loài người.

Chúng con lúc nào cũng sống trong lo âu, sợ hãi. Loài người rất khôn ngoan và mưu ma chước quỷ. Nơi nào có chúng con ở là loài người dùng đủ mọi cách câu giăng, lưới bắt, tát cho bằng được. Cá lớn, cá nhỏ gì chúng đều lượm sạch ráo, chẳng tha con nào. Bắt bằng tay, bằng lưới không được thì chúng dùng điện chích hay bỏ thuốc độc để bắt cho được hết loài cá chúng con.”

Một chú ngựa con ở gần đó đang lui hui tìm chút cỏ non để qua cơn đói khát thì bỗng nhiên nghe mùi thơm phức làm bao tử chú cồn cào khó chịu, chú tò mò đến gần xem sự thể ra sao. Chú thấy bầy heo đang nhốn nháo khi con người mang thức ăn đến đổ vào máng, chúng tranh nhau táp phầm phập trông rất ngon lành, thoáng phút chốc các máng đều hết sạch, rồi mỗi con một chỗ nằm phè ra ngủ say sưa.

Ngựa con nhìn thấy mà thèm chảy nước miếng, vừa buồn tủi, vừa giận trách loài người sao quá bất công. Hai mẹ con ngựa làm lụng vất vả cả ngày mà chỉ ăn toàn cỏ khô, loài heo kia chẳng làm gì mà lại được ăn lúa mạch, bắp rang thơm phức.

Trong lòng bực bội, ngựa con tức tối về nhà tìm gặp ngựa mẹ để hỏi cho ra chuyện. “Mẹ ạ, sáng nay con vô tình đến chỗ nhà heo thấy chúng được ăn món ngon thượng vị, con nào cũng mập ú ù ra vẻ oai phong lẫm liệt, chẳng phải nhọc nhằn làm việc vất vả mà được ăn no đủ, tắm mát rồi nằm phè ra ngủ một cách ngon lành. Thật là sung sướng làm sao! Ước gì con cũng được như thế mẹ nhỉ?”

Nghe con mình nói như vậy, ngựa mẹ chẳng thèm trả lời mà bình thản, an nhiên gặm cỏ khô. Ngựa con ấm ức quá mới phân trần với ngựa mẹ: “Mẹ à, sao loài người quá bất công khi để loài ngựa chúng ta phải nhọc nhằn gánh vác, chuyên chở hàng hóa, đưa người đón bạn, vào sanh ra tử xông pha chiến trường để bảo vệ tổ quốc, chịu lao khổ trăm bề, vậy mà thức ăn chỉ toàn cỏ khô và nước lã, chẳng công bằng tí nào. Loài heo chúng nó thật có phước quá, chúng chỉ ăn no rồi ngủ, ngủ dậy rồi ăn, chẳng phải làm gì cực nhọc mà thức ăn lại thơm ngon đáo để.”

Ngựa mẹ bảo: “Con à, mỗi loài đều có phước báo riêng, con không nên vì thế mà than thân trách phận. Chúng ta hãy chấp nhận cuộc sống hiện tại có gì ăn nấy, miễn sao tạm no đủ là được rồi, đừng vì muốn món ngon vật lạ mà khổ lụy trong hiện tại và mai sau. Con muốn ăn loại thức ăn đó cũng không khó gì, nhưng con hãy ráng chờ thêm vài ngày nữa thì sẽ biết rõ mọi chuyện.”

Tuy được ngựa mẹ khuyên nhũ kiên nhẫn chờ đợi nhưng ngựa con vẫn còn tiếc nuối khi nhớ lại hình ảnh ăn ngon, tắm mát, ngủ kỹ của nhà heo. Vài ngày sau, bầy heo bị loài người trói gô lại tất cả, kêu la eng éc nghe thảm não vô cùng. Ngựa con nghe thấy bèn chạy đến xem sao. Thật là một cảnh tượng quá hãi hùng và khủng khiếp. Chú thấy một người đồ tể đi đến chỗ bầy heo đâm thẳng vào tim chúng làm máu chảy xối xả, kèm theo đó là những tiếng kêu la thảm thiết, đau thương. Sau khi thọc huyết xong, họ đổ nước sôi lên khắp thân thể chúng rồi cạo lông nghe sồn sột, cuối cùng tất cả đều bị chặt đầu, mổ bụng, lột da xẻ thịt và cho lên xe chở đi.

Ngựa con bây giờ mới thức tỉnh, chú liền nhanh chân bỏ chạy về nhà, vừa thấy mẹ chú ta liền nói: “Mẹ ơi, giờ con đã hiểu ra rồi, con cám ơn mẹ rất nhiều.” Ngựa mẹ bảo: “Nghiệp duyên của chúng ta là ngựa thì mình phải có trách nhiệm vận chuyển hàng hóa, đưa đón con người, chuyên làm các việc nặng nhọc để tạo ra miếng ăn, sự sống cho loài người, chỉ chuyên tâm một điều làm việc nào biết việc đó. Loài ngựa chúng ta chấp nhận cuộc sống đạm bạc và rèn luyện trong gian khó, nếu sau này có sự cố gì ta còn có đủ khả năng để vượt qua. Con không thấy loài heo đó sao, chỉ vì ham ăn ngon, ngủ kỹ mà phải chịu quả khổ như vậy.”

Nếu nói về nhân quả thì loài heo trước kia đã từng gieo trồng phước đức, từng bố thí thức ăn thức uống cho nhân loại, nhưng đồng thời gieo nghiệp nhân giết hại do ngu si mê muội mà hiện đời hưởng phước báo ăn ngon, ngủ kỹ nhưng phải đoạ làm heo để bị giết hại trở lại. Heo trong thời kỳ sơ khai lạc hậu con người phải nuôi từ 6 tháng đến một năm rồi mới làm thịt. Ngày hôm nay công nghệ kỹ thuật tân tiến, heo chỉ nuôi hơn 3 tháng là có thể được đưa đến các lò mổ.

Chúng ta thấy rõ ràng nhân quả rất công bằng, sòng phẳng, làm phước thì được hưởng phước. Loài heo được ăn ngon ngủ kỹ mà không phải làm lụng nhọc nhằn, khổ sở; nhưng ngược lại, vì nhân giết hại do ngu si, mê muội nên chịu quả báo mạng sống ngắn ngủi và bị giết hại lại.

Con người vì không biết rõ thực tướng của vạn vật nên si mê chấp thân tâm làm ngã rồi dẫn đến chiếm hữu. Loài heo vì tham ăn ngon, ngủ kỹ nên mới bị đọa lạc như thế. Loài ngựa tuy phải nhọc nhằn, cực khổ làm lụng vất vả, ăn uống đạm bạc, phải ra công vận chuyển giúp đỡ loài người có phương tiện sinh sống, nhưng nhờ vậy chúng lại được tôi luyện.

Loài heo được cho ăn món ngon thượng hạng hằng ngày rồi nằm phè ra ngủ, thấy thế tưởng như ngon lành nhưng không ngờ đang gần kề cái chết mà không hay biết. Ăn ngon ngủ kỹ là căn bệnh trầm kha của nhiều người, đa số ai cũng thích như vậy từ chỗ tham ái chấp trước mà ra.

Trâu nghe chó, chim, gà, cá phân trần sự khổ não của chúng thì cảm thấy thương hại cho các loài vật mà ngửa mặt lên trời, oán trách tạo hóa sao quá bất công khi để các loài vật phải chịu khổ đau như thế. Tại sao thượng đế lại tạo ra nỗi bất công lớn lao như vậy khi chỉ có con người được sống sung sướng, hạnh phúc nhất trên cõi đời này.

Nói như thế rồi trâu ta buồn bã bỏ đi vào chuồng, nằm suy nghĩ mông lung về thân phận của nó và các loài vật khác sao mà khốn khổ quá. Nó nghĩ mà tức giận thượng đế vô cùng. Tại sao ông ta quá bất công, tàn nhẫn. Bất cứ loài vật nào cũng bị con người hiếp đáp, làm hại, cho đến chúa tể sơn lâm hung dữ, ác độc lừng danh như loài cọp mà cũng bị loài người dùng trí khôn để khống chế.

Trâu ta rống lên tiếng rống bi ai, não nuột: “Cuộc đời sao quá bất công, loài người được quyền ăn trên ngồi trước, có tri thức hiểu biết mà tại sao tàn ác, nhẫn tâm đối xử tệ bạc với các loài vật thế này. Ấy vậy mà họ lại được ăn sung mặc sướng, không phải chịu một sự đau khổ nào.”

Đang lúc đó, bỗng trâu nghe rõ ràng tiếng quăng chén, bát, đĩa, muỗng cùng nhiều thứ đồ đạc khác trong nhà vọng ra. Nó lắng tai nghe kỹ mới biết hai ông bà chủ đang lớn tiếng gây gỗ, cãi vã, chửi mắng lẫn nhau.

Tiếng ông chủ gào lên trong cơn giận dữ: “Trời ơi, hãy ngó xuống mà coi, sao tôi phải chịu nhọc nhằn khổ sở đến thế này, làm người gì mà không bằng con trâu, con chó trong nhà nữa. Con trâu đi cày còn có được thời gian để nghỉ ngơi, còn tôi suốt tháng quanh năm phải bận bịu, đa đoan với nhiều công việc, nào là phải lo nhà cửa, vợ con, cơm ăn, áo mặc, tiền bạc, đám tiệc, hội hè, đình đám đủ thứ, làm quần quật suốt cả đêm ngày mà không có lúc nào rảnh rỗi, nghỉ ngơi.

Tôi phải thức khuya dậy sớm, đầu tắt mặt tối, làm lụng nhọc nhằn, vất vả khổ sở như vậy là vì ai? Vậy mà bà vẫn không vừa ý, hài lòng để cho tôi được yên thân một chút, hễ thấy mặt tôi là bà hạch sách, cằn nhằn, càm ràm đủ thứ hết. Bà vừa phải thôi chứ, bà mà làm quá tôi sẽ cho cả nhà ra hết chuồng trâu mà ở để cho vừa lòng hả dạ mấy người.”

Nghe ông chủ nhà nổi nóng, to tiếng quát tháo ầm ỉ lên, trâu ta bỗng giật mình, bất giác mà ngậm ngùi than thở rằng: “Té ra, cuộc sống trên cõi đời này đâu có ai hoàn toàn được sung sướng mà dám bảo đảm mình không bao giờ nhọc nhằn, khổ sở đâu? Từ con người cho đến muôn loài  vật ai cũng phải khổ hết, vì có thân này là có khổ.”

Câu chuyện trên là một bài học sâu sắc nói về giá trị sống của muôn loài vật, muốn bảo tồn mạng sống phải chịu muôn vàn điều khổ đau. Trong cuộc sống, mỗi người đều có một hoàn cảnh, sự nghiệp và việc làm khác nhau. Từ người lãnh đạo đất nước cho đến thứ dân bần cùng đều phải làm việc để lo cơm áo gạo tiền và đóng góp lợi ích thiết thực cho xã hội.

Người nắm cán cân công lý thì chịu trách nhiệm chung lo duy trì hài hòa bảo đảm đời sống an vui, hạnh phúc cho toàn dân. Binh sĩ lo bảo vệ biên cương, bờ cõi, an ninh quốc gia. Thương nhân lo kinh doanh, buôn bán. Nông dân và công nhân tích cực lao động sản xuất. Tu sĩ lo gìn giữ đạo đức tâm linh để giúp nhân loại chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay hiện tại và cho cả tương lai.

Hạng người thấp kém thì hay trộm cướp, lường gạt của người khác, hút xách, đàn điếm gây ra tệ nạn xã hội làm khổ cho nhiều người. Hạng có địa vị thì lợi dụng quyền cao chức trọng để được ăn trên ngồi trước, hưởng thụ xa xỉ quá đáng trong khi nhiều người còn quá thiếu thốn, khó khăn.

Nhân đam mê hưởng thụ quá đáng sẽ khiến con người ngày càng sa đọa, gieo đau khổ cho mình và người, giống như loài heo được ăn no ngủ kỹ rồi chờ ngày bị con người phanh da xẻ thịt đau khổ vô cùng. Kẻ ngu si chỉ biết hưởng thụ đam mê nhất thời mà phải chịu khổ triền miên không có ngày thôi dứt. Người trí vì lợi ích an vui lâu dài cho chính mình và tha nhân nên luôn sống đơn giản, muốn ít biết đủ để có cơ hội phục vụ và đóng góp cho con người nhiều hơn.

Tham có nghĩa là tham lam, ham muốn quá đáng như tham sống sợ chết, tham tiền tài, tham sắc đẹp, tham danh vọng, tham ăn ngon ngủ kỹ… Do chấp thân là thật nên tham lam mọi nhu cầu vật chất để phục vụ thân này.

Lòng tham con người được ví như giếng sâu không đáy nên không biết đến đâu là đủ. Khi không có thì tham muốn cho có, khi có rồi thì tham muốn cho thật nhiều, tham được thì càng thêm tham, tham không được thì sinh ra buồn phiền, giận dỗi, tìm cách trả thù dẫn đến tàn sát, giết hại lẫn nhau gây đau thương và làm tổn hại cho nhiều người.

Quả thật, lòng tham con người vô cùng tận như giếng sâu không đáy, chúng ta có thể dò được đáy sông, đáy biển nhưng không thể đo lường lòng tham của con người vì nó không có bến bờ nhất định.

Chính vì thế, tu sĩ Phật giáo giữ vai trò rất quan trọng trong cuộc sống hiện tại. Họ không phải là những người lười biếng, ăn bám xã hội. Họ có trọng trách thiêng liêng, cao quý là giúp nhân loại chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc. Thế gian này nếu con người sống không có nhân cách đạo đức tốt đẹp, không có luân thường đạo lý thì xã hội sẽ là một bãi chiến trường đẫm máu mà lịch sử loài người đã chứng minh thực tế rõ ràng. Từ mấy ngàn năm lịch sử, chiến tranh nhân loại xảy ra cũng vì lòng tham lam, ích kỷ của con người.

Đây là những câu chuyện ngụ ngôn mang tính triết lý sâu sắc về nền tảng nhân quả, từ nghiệp nhân si mê mà bị đọa lạc vào các loài súc sinh để trả quả khổ đau. Si là vô minh, là cái bất giác lầm lẫn không biết rõ sự thật nên thành ra có tham hay ham muốn quá độ. Do đó, si là cái khởi đầu bắt nhịp cầu cho tham lam, nóng giận bộc phát. Đúng ra, si là cái ngu tối thâm căn cố đế chẳng biết thế nào là đúng-sai, thật-giả.

Nhưng nếu trong cuộc sống ai cũng có ý thức sống bằng trái tim yêu thương và hiểu biết mà cùng nhau chia vui, sớt khổ, hay làm những việc thiện lành để đem lại an vui, hạnh phúc cho nhân loại thì thế gian này sẽ tốt đẹp biết chừng nào. Ngược lại, con người sẽ chỉ làm khổ nhau vì tâm tham lam, ích kỷ, hẹp hòi; vì tâm si mê, ganh ghét, tật đố, sân hận, muốn bảo vệ quyền lợi cho chủ nghĩa cá nhân.

Đó là một lẽ thực trong cuộc sống hiện tại nên Phật vì lòng từ bi, thương xót chúng sinh mà khuyên nhủ chúng ta không nên giết hại, trộm cướp, tà dâm, nói dối hại người và không dùng các chất độc hại như rượu chè be bét, hút chích xì ke-ma túy mà làm khổ đau cho nhau.

Song, nếu quán chiếu theo tuệ giác của Thế tôn thì thế gian này khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Khổ và vui như hai mặt lật úp của một bàn tay, đan xen, chồng chéo nhau như một mạng lưới vô hình giăng bủa khắp cuộc đời chúng ta, không một ai có thể thoát được. Ngoại trừ đức Phật Thích-ca Mâu-ni và các chư vị đại Bồ tát, các Ngài đã vượt qua được- mất, khen-chê, tốt-xấu lẫn khổ-vui của cuộc đời để thành tựu đạo quả giác ngộ giải thoát, giáo hóa chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán. Ngài đã tìm ra chân lý kiếp người và biết cách làm chủ bản thân thoát khỏi mọi ràng buộc khổ đau.

Cuộc sống này người trẻ có những cái khổ của người trẻ, người già có những cái khổ của người già, người giàu có những cái khổ của người giàu và người nghèo có những cái khổ của người nghèo. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng đều có những cái không được hài lòng như ý. Ai cũng có những nỗi khổ về thân như nóng lạnh, bị muỗi mòng chích đốt…

Trong gia đình, con người khổ vì phải sinh-già-bệnh-chết. Ngoài xã hội, con người khổ vì đấu tranh, giành giựt miếng ăn để sống và đủ thứ nỗi khổ, niềm đau đến với con người như yêu thương, xa lìa nên khổ; oán ghét mà gặp nhau hoài là khổ; mong cầu mọi việc mà không được vừa ý cũng khổ. Khổ là một sự thật của muôn loài chúng sinh. Vậy, chúng ta muốn vượt qua nỗi khổ, niềm đau thì phải làm sao?

Có ai sống mà không lo lắng, không hối tiếc, không trông mong, không nhớ nhung, không sầu khổ, không nuối tiếc hay hy vọng một điều gì đó? Có ai sống mà không biết phiền muộn khổ đau, thất chí nản lòng, bi quan yếm thế, chán chường trong cô đơn tuyệt vọng? Có ai dám bảo đảm rằng ta hoàn toàn khỏe mạnh, thoải mái cả hai về mặt thể xác lẫn tinh thần? Chắc chắn là không có ai, ngoại trừ các vị đại Bồ tát và chư Phật thị hiện vào đời để giáo hóa chúng sinh.

Thế giới loài vật cũng có sự sống sinh hoạt song hành với loài người nên cũng bị vô minh chi phối. Loài vật chỉ sống theo quán tính, thói quen, không có sự nhận định, suy xét, tìm tòi, quán chiếu soi sáng như loài người bởi nghiệp si mê nhiều đời chiêu cảm.

Người ham hưởng thụ nhiều cho rằng chết là hết, không tin tội phước, nhân quả nghiệp báo sẽ tranh thủ tận hưởng khoái lạc trần gian bất chấp luân thường đạo lý, cuối cùng gây nhiều tội lỗi tày trời làm băng hoại đạo đức xã hội. Người bi quan yếm thế sẽ chán chường, chẳng muốn làm gì hết vì nghĩ có cố gắng cũng phí công vô ích, thà ăn không ngồi rồi còn sướng hơn.

Người mê tín khi nghe vậy cứ tưởng đấng sáng tạo đang trừng phạt con người nên càng cầu khẩn, van xin ban ân huệ, cuối cùng dẫn đến cuồng tín, si mê không biết phân biệt đúng sai. Người ăn không ngồi rồi, người đầu trộm đuôi cướp, người si mê nghiện ngập sẽ càng sa đoạ hơn khi tin vào những điều huyền hoặc vu vơ. Họ mặc tình ngang nhiên làm nhiều điều phi pháp để kiếm tìm sự hưởng thụ cho thỏa thích vì sợ sau khi chết sẽ làm ma ngáp ruồi. Tất cả những hạng người ấy đều phải chịu quả khổ đau vô cùng tận không có ngày thôi dứt vì quan niệm sai lầm.

Hiện tại, những quả báo chung của các loài có tình thức như thiên tai, sóng thần, động đất, lũ lụt, hoả hoạn, chiến tranh dường như đã được sắp sẵn và đang xảy ra trên thế giới này. Chúng ta có thể biết được nhờ vào mạng lưới thông tin, báo chí hằng ngày; nhưng chúng không đồng loạt, khi thì chỗ này, khi thì chỗ kia, hậu quả từ nhân phá hoại sự sống lẫn nhau trên trái đất.

Riêng con người thì thông minh hơn, ác độc hơn vì có hiểu biết hơn nên có thể giết hại tất cả các loài vật khác, thậm chí có thể giết hại luôn gia đình, người thân của mình. Con người phát triển, mở mang tới đâu thì tàn hại và huỷ diệt thiên nhiên, muôn loài vật tới đó. Giết hại con người thì mạng đền mạng hoặc chịu tù từ 10 năm cho đến chung thân, hơn thế nữa sẽ bị chi phối bởi luật nhân quả mà âm thầm nhiều kiếp bị chết yểu, bệnh hoạn và bị giết hại trở lại.

Giết hại con người thì quả báo nặng hơn các loài khác vì có cộng nghiệp người thân trả thù nên ảnh hưởng nhân quả rất lớn. Giết hại các động vật có tâm thức thì tuỳ theo mức độ cố ý hay vô tình mà thủ phạm phải chịu trả quả bị thương tật, chết chóc, hoặc có thể bị tai nạn chung với nhiều người như thiên tai, dịch bệnh và tai nạn giao thông… Rất nhiều nghiệp nhân khác làm hủy hoại trái đất để phục vụ nhu cầu cuộc sống cho con người như chặt phá cây rừng, khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi làm môi trường ô nhiễm, quả báo phải trả là tai hoạ chung của toàn nhân loại do nhân phá hủy sự sống mà ra.

Người con Phật với tinh thần từ bi, trí tuệ mỗi ngày hãy nên quán sát và xem xét từng hành động, lời nói, suy nghĩ của mình trong từng phút giây không lơ là, giải đãi, muốn ít biết đủ, không xan tham quá mức những nhu cầu hằng ngày.

Con người cần phải chủ động ngồi lại thương thuyết với nhau để cân bằng sinh thái của bầu vũ trụ bao la này, nếu không con người sẽ tự tiêu diệt lẫn nhau và sống trong oán giận thù hằn bởi nhân đấu tranh, giành giựt, chiếm đoạt.

Sở dĩ con người và muôn loài vật phải chịu nhiều đau khổ trong đời chính là do nhân ham muốn, luyến ái dục lạc mà chúng ta nỡ nhẫn tâm tàn sát, giết hại lẫn nhau. Loài vật vì ngu si, mê muội nên phải bị đọa lạc vào chỗ thấp hèn để trả quả xấu ác. Con người có phước hơn vì có hiểu biết và nhận thức sáng suốt, nếu biết vận dụng theo chiều hướng thượng thì đem lại an vui, hạnh phúc cho tất cả chúng sinh; ngược lại sẽ gieo đau thương, tang tóc cho muôn loài thì phải chịu quả báo khổ đau cùng cực.

Những nỗi khổ, niềm đau của muôn loài không bao giờ chấm dứt vì nhân tương tàn, tương sát lẫn nhau. Cho nên, ta nhận biết được cuộc đời là một trường đau khổ và cái khổ sẽ tác động đến tất cả mọi người từ vua chúa, quan quyền cho đến dân đen con đỏ nên phải biết khôn ngoan sáng suốt lựa chọn con đường hướng thượng để rèn luyện nhân cách đạo đức. Ta biết cách làm chủ bản thân mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời nhờ giữ gìn 5 Giới của nhà Phật: không giết hại, trộm cướp lường gạt, tà dâm, nói dối và dùng các chất kích thích như rượu, xì ke-ma túy để làm tổn hại cho nhân loại.

Những nỗi khổ, niềm đau trong kiếp người không bao giờ kể xiết. Nó đeo đẳng, chi phối đời sống của ta như bóng theo hình. Người nghèo phải khổ vì dãi nắng dầm mưa, đầu bán cho trời, lưng bán cho đất, nợ nần chồng chất, con cái thất học, bệnh tật đau yếu, vợ chồng ly tán.

Người giàu phải khổ vì quyền cao chức trọng, sợ người tài giỏi hơn mình, luôn sống trong lo âu vì sợ tiền tài bị mất mát và nỗi khổ đau nhất là con cái bất hiếu, phá sản vì bê tha, nghiện ngập. Xét cho cùng, đã có thân này là có khổ, cho nên ta cần phải cố gắng tu tâm dưỡng tánh để biết cách làm chủ bản thân mà vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.

Đức Phật vì lòng từ bi mà thương xót chúng sinh nên đã chỉ ra nỗi khổ niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.

Khổ là một sự thật. Phần lớn mọi người tìm đến chùa học hỏi, tu tập đều do gặp hoàn cảnh trắc trở, khổ đau trong đời sống hằng ngày. Mà khổ từ đâu ra? Từ sự chấp trước thân tâm này làm ngã là ta, là tôi, là mình nên muốn chiếm hữu, rồi từ đó tham muốn quá đáng mà sinh ra các hệ lụy khổ đau.

KHỔ ĐAU KHI MỚI SINH RA

Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam trên hai ngàn năm nay hầu như đã thấm nhuần trong lòng dân tộc về lẽ thật hư của cuộc đời chính là nhờ nói đúng lẽ thật, phù hợp với tinh thần khoa học hiện nay, giúp cho con người có nhận thức sáng suốt và hiểu biết đúng như thật. Cho nên, Phật giáo rất thực tế, không phải huyền hoặc.

Những người lớn tuổi không tìm hiểu đúng Chánh pháp do ảnh hưởng quá nhiều các tín ngưỡng dân gian nên vì vậy mà một số người nghĩ đạo Phật là bi quan yếm thế, chán chường. Đó chính là những nguyên nhân khiến cho Phật pháp đi đến suy tàn. Nếu chúng ta cứ để như thế thì các thế hệ Phật tử về sau chắc chắn sẽ tránh xa đạo Phật vì thấy đạo Phật không còn thích hợp với thời đại mới, với nền khoa học hiện đại.

Bây giờ, chúng ta sẽ tìm hiểu 8 loại khổ qua cách nhìn của đạo Phật: sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, yêu thương xa lìa khổ, mong cầu không như ý khổ, oán ghét gặp nhau khổ, thân này thịnh hay suy cũng đều khổ.

Chúng tôi xin dẫn bài kinh đầu tiên Chuyển Pháp Luân của đức Phật dạy 5 vị Tỳ-kheo trước kia đã từng theo Ngài tu khổ hạnh. Đó là bài kinh nói về Tứ diệu đế. Đây là bài kinh hết sức cụ thể, thực tế, không có gì khó hiểu hay huyền hoặc. Tứ diệu đế là bốn chân lý nhiệm mầu chắc thật, trong đó đế đầu tiên là Khổ đế, nghe từ Khổ đế mọi người đều vội vàng kết luận đạo Phật bi quan quá.

Khổ đế, chữ “đế” nghĩa là chắc thật, không sai chạy. Như vậy, cái khổ Phật đưa ra là một lẽ thật không ai chối cãi được. Khổ có mấy thứ? Đầu tiên là khổ về thân. Thân này có sinh-già-bệnh-chết, bốn thứ đó Phật nói là khổ. Có người chưa chịu sanh là khổ, vì lúc mới lọt lòng mẹ có biết gì đâu mà khổ. Nói không biết gì thì hơi quá đáng, nếu không biết thì ai khóc? Biết khóc tức là có cảm giác khổ, trăm đứa bé lọt lòng mẹ đều khóc, chứng tỏ chúng có cảm thọ khổ. Đó là khổ khi sinh.

Như vậy, đời sống của chúng ta thường gặp khổ nhiều hơn vui. Khi lọt lòng mẹ đã có cảm giác khổ nên trong cuộc sống kéo dài mấy mươi năm cũng khổ. Vì vậy, Phật nói sinh khổ chúng ta chối cãi được không? Thế nhưng, nhiều người lại cứ tưởng như vui, đó là vui trong tưởng tượng thôi chớ không có thật. Vậy mà thiên hạ cứ bảo cuộc đời là hạnh phúc bởi vì nó có nhiều thú vui làm cho con người đam mê say đắm, dính mắc vào đấy mà chịu muôn vàn sự khổ đau. Thực tế, hạnh phúc thì quá ít mà đau khổ thì quá ê chề. Đó là khổ thứ nhất, sinh khổ.

Sinh khổ là nỗi khổ trong sự sinh ra. Loài người khi ở trong thai đã có tình thức. Do có tình thức nên có sự cử động cảm xúc. Khi mẹ ăn thức lạnh vào cảm thấy như ở trong giá băng, lúc ăn thức nóng vào cảm thấy như bị nung đốt. Thai nhi sống trong chỗ chật hẹp, tối tăm và nhơ nhớp, vừa lọt lòng đã kêu khóc oa oa; rồi từ đó khi lạnh-nóng, đói-khát, muỗi kiến cắn đốt chỉ biết kêu khóc mà thôi. Huệ nhãn của Phật thấy rõ những chi tiết ấy nên Ngài mới xác quyết rằng sinh là khổ. Sinh khổ theo tuệ giác của Thế tôn có 5 loại:

– Thọ thai: Lúc thần thức gá vào thai mẹ, ở trong bụng mẹ chật chội và dơ bẩn, chịu nhiều bó buộc.

– Chủng tử: Sau khi thần thức gá vào tinh trùng của cha và noãn cầu của mẹ, thân thể sẽ tùy theo hơi thở của mẹ mà tồn tại, không được tự do thoải mái bởi do nghiệp lực chiêu cảm.

– Tăng trưởng: Thần thức, thân thể ở trong bụng mẹ tăng trưởng mỗi ngày, dưới ruột non, trên ruột già, nằm ở giữa như ở tù. Thai nhi sống nhờ thức ăn thức uống của mẹ và sự hô hấp mà phát triển theo từng giai đoạn.

– Khi được sinh ra: Trải qua gần 10 tháng, thai nhi đã phát triển đầy đủ, đây là thời điểm người mẹ chuyển dạ để sinh. Suốt thời gian dài nằm trong bụng mẹ, sự sống hoàn toàn nương vào mẹ, được mẹ nuôi dưỡng, nâng niu, che chở. Khi thai nhi rời khỏi bụng mẹ, thân thể với da thịt non mềm phải tiếp xúc môi trường mới với khí trời lạnh-nóng, gió-mưa, các vật dụng xúc chạm… sẽ cảm nhận đau buốt như bị châm chích. Bé đau nhưng chưa nói được mà chỉ biết khóc, vì thế chúng ta cần phải có thao tác nhẹ nhàng với em bé mới sinh ra.

– Chủng loại: Mỗi thai nhi đều có một hình tướng thân mạng nam hay nữ với tướng mạo đầy đủ, xinh đẹp hay khiếm khuyết, xấu xí…

Con người khổ trong sự sinh sống và khổ từ khi còn là bào thai trong bụng mẹ. Con phải nằm trong bụng mẹ chật hẹp là khổ, mẹ phải mang nặng đẻ đau biết bao khó nhọc cũng là khổ. Sinh con ra rồi thì cha mẹ cũng khổ vì phải lo lắng cưu mang và cho ăn uống để duy trì mạng sống. Con người sống trên đời phải mưu kế sinh nhai, làm việc nhọc nhằn vất vả nên cũng khổ.

Sự sinh sống của con người có hai phần khổ: Khổ trong lúc mới sinh ra và kế tiếp là khổ trong đời sống. Khổ trong lúc sinh, người sinh và kẻ bị sinh đều khổ. Khi người mẹ mới có thai là đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn ọe, dã dượi, bất thần, mệt mỏi… Thai mỗi ngày mỗi lớn thì người mẹ mỗi ngày mỗi thêm mệt mỏi, nặng nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp.

Đến khi gần sinh, sự đau đớn hành hạ xác thân người mẹ không sao nói xiết, chỉ có những người từng làm mẹ mới cảm thông cho nỗi đau này. Dầu được thuận thai đi nữa thì mẹ cũng phải chịu sự dơ uế cả tháng trời, yếu đuối nhiều tháng vì tinh huyết hao mòn, ngũ tạng suy kém, nếu không có cha mẹ hai bên chăm sóc thì lại càng khổ não hơn. Còn rủi bị nghịch thai thì mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn trăm bề, có khi sau một lần sinh bị giải phẫu mà mẹ phải chịu tật nguyền suốt cả cuộc đời.

Còn con, từ khi mới đầu thai cho đến lúc chào đời cũng phải chịu nhiều điều khổ sở. Trải qua 9 tháng 10 ngày con bị giam hãm trong khoảng tối tăm, chật hẹp còn hơn cả lao tù ngục tối. Mẹ đói cơm, khát nước thì con ở trong thai bào lỏng bỏng như bong bóng phập phòng. Mẹ ăn no thì con bị ép như bồng bột bị đè dưới thớt cối, khó bề cựa quậy. Đến kỳ sinh sản, thân con phải chen qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bể nên khi vừa thoát ra ngoài liền cất tiếng khóc vang: “khổ a! Khổ a!”

Xét về phương diện vật chất hay tinh thần, đời sống con người đều có nhiều khổ sở.  Về vật chất, con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men…

Để có được những nhu cầu cần thiết ấy, con người phải siêng năng làm việc vất vả nhọc nhằn, đổ mồi hôi sôi nước mắt mới mua được chén gạo bát cơm, manh quần tấm áo và các phương tiện sống khác. Về phương diện nhà ở thì có những gia đình phải thuê phòng trọ ở tạm qua ngày vì không có khả năng tạo dựng được một ngôi nhà nho nhỏ.

Cuộc sống của con người chẳng phải đợi đến cảnh đói khát mới gọi là khổ, ăn uống thất thường, thiếu thốn đủ mọi thứ cũng đã là khổ rồi. Đâu phải chỉ có những người nghèo hèn thiếu thốn, khó khăn mới khổ đâu? Người giàu có, sang trọng cũng vẫn khổ như thường. Muốn có tiền bạc vật chất dồi dào thì tất nhiên họ phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt mặt tối trong công việc, đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được.

Xét về phương diện tinh thần, đời người cũng có nhiều điều khổ tâm, nhiều khi còn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất. Tóm lại, xét về vật chất hay tinh thần thì sự sống cũng mang theo nhiều cái khổ. Sinh khổ là như thế bởi vì nó là sự tiếp nối theo quy luật nhân quả nên đời người khổ là lẽ đương nhiên.

CÀNG VỀ GIÀ CÀNG KHỔ ĐAU NHIỀU HƠN

Nói đến sự khổ trong lúc tuổi già, con người khi già yếu thì mắt mờ tai điếc, gối mỏi lưng còng, chân tay run rẩy, ăn không có cảm giác ngon miệng, ngủ không ngon giấc, trí nhớ giảm sút đáng kể, làn da khô nhăn, răng thường đau nhức và rụng bớt. Người tuổi già thường hay lú lẫn, đây là nỗi khổ niềm đau của người già. Dù cho thanh niên cường tráng hay thiếu nữ khỏe mạnh thì theo thời gian rồi cũng phải đối đầu với sự già yếu này.

Chúng ta hãy cùng hồi tưởng lại cuộc đời của đức Phật, có một lần khi đi ra khỏi cổng thành, thái tử thấy một người già ốm o gầy mòn, dung nhan tiều tụy phải dùng gậy chống đỡ và vừa đi vừa thở hổn hển rất đau khổ. Ngài thấy cảnh tượng như thế mới quán xét và chiêm nghiệm rồi đây mình cũng già nua, yếu ớt và tàn tạ như vậy. Càng chiêm nghiệm ngài càng thấm thía sâu sắc nỗi khốn khổ của người già nên càng thương cảm họ nhiều hơn.

Chúng ta bây giờ thấy người già thì nên biết soi xét lại chính mình để có sự cảm thông và thương tâm đến họ. Thấy người khác già thì chúng ta biết mình cũng sẽ già, từ đó ta có sự tôn trọng, kính mến, quan tâm giúp đỡ những người già nhiều hơn. Đồng thời, chúng ta quyết tâm sống và tu tập để biết cách làm chủ bản thân mà thoát khỏi sự chi phối khổ sở của tuổi già.

Phật dạy sinh-già-bệnh-chết khổ, đó là một sự thật của kiếp người. Già là khổ. Vì sao già lại khổ? Hiểu biết, nhận thức giảm sút, mắt mờ tai điếc, đi đứng lọng cọng, gối mỏi lưng còng, ăn uống khó khăn… Già như vậy quả thật là khổ. Rồi sao nữa? Bệnh là khổ. Quý vị nào có vào bệnh viện sẽ thấy cảnh từ em bé sơ sinh cho đến người già bệnh phải nhập viện nhưng không đủ chỗ nằm, thậm chí phải nằm ngoài hành lang.

Người già lại thường chậm chạp, luống cuống trong mọi sinh hoạt hằng ngày khi ăn uống, đi đại tiểu tiện… và thường làm nhớp nhơ. Con cháu dù thân thương đến đâu cũng sanh nhàm chán, bực bội, xa lánh, sao lãng bổn phận. Chính những hành động, thái độ thiếu hiểu biết, vô trách nhiệm của con cháu đã khiến người già chịu nhiều đau khổ.

Chỉ có những người con chí hiếu dù ở hoàn cảnh nào cũng thương yêu, kính quí, chăm sóc chu toàn cho ông bà, cha mẹ. Quả thật, tuổi già thật đáng buồn tủi, khổ sầu nếu không biết tu sửa. Thời thanh niên cường tráng đã qua, thời già nua suy yếu đến, mạng sống con người cứ rút ngắn theo thời gian và cuối cùng thể xác đi dần đến hư hoại.

Có những người lớn tuổi già yếu rồi nhưng khi ngồi với nhau chỉ nói toàn những chuyện quá khứ hào hùng như để khoe hay, khoe giỏi nên khi con cháu không đáp ứng nhu cầu cần thiết thì cau có, giận dỗi, buồn phiền. Nhiều người bây giờ đã già mà vẫn không chịu biết mình đang già, nếu khéo nhìn lại thì sẽ thấy rõ mình đã già yếu, bây giờ cần phải dốc tâm tu tập, kiếm chút ít tư lương, tích tạo phước đức để ngày ra đi được an ổn, nhẹ nhàng.

Chúng ta dám nhìn thẳng vào sự thật là đã biết cách học theo hạnh giác ngộ của đức Phật. Lúc còn trai tráng, thái tử đang là một người có đầy đủ tất cả quyền uy, thế lực, văn võ song toàn. Vậy mà khi thấy người già thì liền biết mình rồi cũng sẽ già nua và ốm yếu như thế. Thấy rõ cuộc đời không có gì đáng để gọi là vui nên Ngài đã quyết chí xuất trần. Nhìn nhận, chiêm nghiệm và thấu tột được như vậy là chúng ta đã biết học theo cái nhìn của bậc giác ngộ.

Trong thực tế, con người khi già rồi các căn đều suy yếu, mắt mờ, tai lãng, lưng mỏi, chân run, ăn thấy kém ngon, ngủ không an giấc, trí nhớ chẳng còn minh mẫn, làn da khô nhăn, răng lần lần đau nhức và chuyển rụng.

Lắm kẻ tuổi già lờ lẫn, khi ăn mặc, lúc đại tiểu đều nhớp nhơ, con cháu dù thương tiếc giúp đỡ nhưng lâu ngày cũng sanh nhàm chán, muốn bỏ bê. Xét ra, cái già thật không có gì là vui thú, nếu chúng ta không biết tu tập chuyển hóa thì càng già càng khổ hơn.

THÂN THỂ BỆNH HOẠN ĐAU NHỨC HÀNH HẠ KHỔ

Thân bệnh là sự khổ đau trong cơn đau bệnh. Có thân là có bệnh, từ những loại bệnh nhẹ thuộc ngoại cảm đến các chứng bệnh nặng thuộc nội thương. Trong cuộc thế có rất nhiều người vướng phải những bệnh nan y như ung thư, lao, cùi, tiểu đường, tai biến… Vướng vào những bệnh nan y tự thân cảm thấy đau đớn lại tốn kém, hoặc không có tiền chạy chữa lại càng khổ hơn. Sự khổ lụy không chỉ riêng mình mà còn khiến cho gia đình, người thân bị ảnh hưởng theo. Bệnh khổ có 2 loại:

Thân bệnh: Thân bệnh là tất cả những chứng bệnh con người mắc phải, gánh chịu. Những chứng bệnh này đều do tứ đại không điều hòa mà phát sanh như địa đại không điều hòa thì thân thể nặng nề, phong đại không điều hòa thì thân thể bị tê cứng, thủy đại không điều hòa thì thân thể bị phù thũng, hỏa đại không điều hòa thì thân thể bị nóng bức.

Tâm bệnh: Trong lòng luôn ôm ấp những tâm lý khổ não, buồn thảm, bi ai, lo lắng, bất an, sợ hãi, cô đơn trong tuyệt vọng…

Rồi một lần khác thái tử thấy một người bệnh đang rên đau, ngài nghĩ hóa ra con người ta cũng có khi phải bệnh đau như vậy, cùng là thân người như nhau nhưng người kia đang bị bệnh thì có lúc ngài cũng sẽ bị bệnh như mọi người, đã bệnh thì phải đớn đau, khổ sở trăm bề không có gì là vui hết. Từ đó, thái tử thấy được sự tạm bợ của thân người và sự sống này không có gì bền chắc, ý chí xuất trần trong ngài càng được nung nấu mạnh mẽ hơn.

Chúng ta thấy được như vậy thì không còn nhầm tưởng thấy mình khỏe mạnh mãi để sanh tâm ngã mạn, xem thường người khác. Đồng thời, chúng ta sẽ cảm thông, thương yêu người bệnh và tìm cách để vượt lên, không bị bệnh hoạn khổ đau chi phối.

Từ đó, chúng ta sẽ có tâm đồng cảm, thông cảm, thương yêu bệnh nhân, tôn trọng mọi người, không thờ ơ hay xem thường một ai. Chúng ta thấy người khác bệnh thì liền biết rồi mình cũng sẽ bệnh như mọi người. Người đó bệnh đau, lo sợ, hoang mang thì đến lúc chúng ta bệnh, ta cũng sẽ có những nỗi đau và tâm trạng giống như họ.

Thấy người khác bệnh, ta biết mình rồi cũng sẽ bệnh, từ đó thấy rõ thân này mong manh, giả tạm, không chắc thật nên ta không bám víu, dính mắc. Khi chúng ta không bám víu thân này, cảnh sống này thì các mê lầm, khổ não sẽ không còn. Đồng thời, chúng ta sẽ cảm thông, thương yêu, tôn trọng người bệnh nên thiện căn được tăng trưởng và giảm sự chấp ngã về thân này.

CHẾT LÀ NỖI KHỔ LỚN LAO NÊN AI CŨNG SỢ

Thứ tư là chết khổ. Như chúng ta thấy, người thân khi sắp lâm chung đau đớn, quằn quại rất thống khổ. Đó là chưa kể thần thức hôn mê, người sắp chết thấy những cảnh giới gì đó hiện ra, lòng họ hoảng sợ, kêu gào, than khóc thật thảm thương.

Ai cũng tham sống sợ chết, muốn sống dai, sống già, sống thọ, cho nên nhiều người tìm cách để luyện trường sanh bất tử nhưng cuối cùng rồi ai cũng phải chết. Và chết là một sự thật không tha bất cứ một ai, dù là đức Phật cũng phải xả thọ mạng này khi hết duyên đời. Mình muốn sống hoài mà không được nên ai không biết tu gần chết rất khổ sở vì không biết mình sẽ đi về đâu.

Mọi người đều muốn sống an vui, chết nhẹ nhàng, nhưng việc ấy rất khó toại nguyện, mà phần nhiều thân thể con người luôn bị bệnh khổ hành hạ đau đớn cho đến khi chết. Thân đã bị bệnh khổ như thế, tâm lại càng hãi hùng, lo sợ, tham tiếc tài sản của cải mình tạo ra, luyến tiếc vợ con trước khi nhắm mắt lìa đời nên lại càng khốn khổ hơn. Chết quả thật là rất khổ nên ai cũng sợ. Chết khổ có 2 loại:

Cơn bệnh kéo lâu dài, mạng sống hết nên phải chết.

Chết do duyên bên ngoài đưa đến, còn gọi là chết bất đắc kỳ tử như gặp chuyện không may, bị người giết hại, bị tai nạn mà chết, bị chết nước hoặc lửa thiêu, hay vì chiến tranh loạn lạc mà chết.

Khi đi ra 4 cửa thành, thái tử thấy một người chết, ngài liền nhìn lại và nhận ra rằng, người ấy chết rồi thì cũng đến lúc mình cũng sẽ chết. Ngài càng thấy rõ sự tạm bợ của kiếp người, chí xuất trần càng nung nấu mãnh liệt hơn.

Mới ngày nào đây còn liệt liệt, oanh oanh, sao bây giờ chỉ còn lại một tấm thân tàn ma dại nằm bất động, ai làm gì cũng không biết. Chúng ta bây giờ tận mắt chứng kiến cảnh người chết thì mới thấy tấm thân này quá mỏng manh, kiếp người quá ngắn ngủi, cõi đời thật phù du, giả tạm.

Nếu chúng ta thấy rõ được sự mong manh của kiếp sống con người, thấy được khoảng thời gian sống và chết kề cận một bên thì chúng ta sẽ tỉnh giác mạnh hơn, không bao giờ có sự tranh cãi nhau nữa. Tranh cãi, giận dữ là do người kia không tự làm chủ được chính họ. Chính khi đang giận dữ họ cũng rất khổ sở chứ không sung sướng gì. Mình là người tỉnh táo làm chủ được cảm xúc mới thấy rõ nên thông cảm và thương họ, tội nghiệp cho người ta. Thấy được như vậy thì chúng ta sẽ thương được người hại mình mà không tạo nghiệp khổ đau.

Phật nói thân hiện tại của chúng ta đây mang tính chất đau khổ từ lúc mới sinh cho đến khi trưởng thành rồi già-bệnh-chết, tất cả đều phải trải qua nhiều thống khổ. Đó là một lẽ thật. Mới nghe người ta thấy đạo Phật như bi quan, nhưng thực tế đạo Phật rất lạc quan và yêu đời. Tại vì đạo Phật nói rõ lẽ thật của cuộc đời để mọi người không lầm lẫn mà biết cách làm chủ bản thân trên những khổ vui đó.

Như một ai đó đang gánh một gánh nặng suốt một chặng đường dài nên cảm thấy mỏi mệt, đuối sức, nếu lúc đó để gánh nặng xuống thì họ vui hay khổ? Chắc chắn là vui! Còn gánh nặng trên vai thì còn khổ, để xuống hết nặng rồi nên vui, sau khi biết khổ rồi mới thấy vui chớ cái vui ấy không ngoài sự khổ. Cũng chính vì thế, đạo Phật nói rõ nguyên nhân của sự khổ đau để chúng ta biết cách chuyển hóa, tiêu trừ, khi đó khổ hết thì vui đến.

YÊU THƯƠNG XA LÌA KHỔ

Kế đến là 4 thứ khổ về tâm, tổng cộng vừa khổ thân và khổ tâm là 8 thứ. Nếu kể tiếp theo thì thứ năm là “yêu thương xa lìa khổ”, khổ do thương mến nhau mà phải bị mất mát, bị xa lìa. Trong cái tình yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh em đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly thì thật không có gì đau đớn hơn. Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt.

Sanh ly khổ: Một gia đình đang sống trong cảnh đầm ấm vui vầy thì bỗng vì hoàn cảnh bắt buộc, hay vì một tai họa thình lình xảy đến như giặc giã, bão lụt, hỏa hoạn… làm cho kẻ ở đầu này trông đợi, người ở góc kia nhớ chờ. Thật đau lòng xót dạ!

Điều này trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc ta càng thấy rõ. Biết bao thanh niên xa gia đình, người thân dấn thân nơi chiến trận chết chóc đau thương không ngày