Trong nhiều trường hợp, một người tự xưng là Phật tử chỉ khác người không phải là Phật tử ở chỗ khi nào trong nhà có người chết thì rước một vị Sư áo vàng tới làm lễ tang. Ngoài ra, suốt đời không hề tìm hiểu đạo Phật nghĩa là gì, không hề tìm hiểu coi đạo Phật có
điều gì khác với các đạo khác, không hề biết đến giáo lý nhà Phật, không hề biết đến chùa chiền, ngoại trừ mỗi khi có công việc gì cần cầu xin, thí dụ cầu an, cầu tài lộc, cầu cho con thi đậu, cầu buôn may bán đắt.. vân vân, thì đem nải chuối đến chùa năn nỉ với Phật.
Hoặc ngày Tết thì mới lên chùa, nhưng không phải là lên chùa với mục tiêu cúng dường Tam Bảo để tự huấn luyện cho bản thân mở được cánh của Bố Thí buông xả trong tâm bằng cách cúng dường vào chùa chút tịnh tài để nhà chùa có phương tiện in ấn kinh sách, duy trì Phật đường, hoằng dương Chánh Pháp, mà là lên chùa chỉ để xin xăm và hái lộc, hai việc đó thì cũng rất vui, tuy nhiên, hái lộc chỉ cần một chồi nhỏ, nhưng có người lại bưng cả một “chậu hoa lộc” về, như thế là phạm vào một trong ba tật độc hại mà Phật tử cần trừ là tật Tham.
Vậy thì thế nào là một Phật tử đúng nghĩa?
Trước nhất, chúng tôi xin trình bày vài khái niệm mặt lý thuyết.
Đạo Phật là đạo Giác Ngộ. Từ vô thủy, chúng ta vì một niệm mê mờ bất giác mà trôi lăn vào biển sanh tử, trồi lên ngụp xuống, tới nay đã bao nhiêu đời kiếp rồi mà không biết đường ra.
Nhờ có đức Phật tu hành, Giác Ngộ được Bản Tánh Chân Thật, lại mở lòng từ bi, dạy chúng ta đường lối tu hành chuyển mê khai ngộ, biết đường trở về nguồn Tâm, để có thể trở lại được Bản Tánh Chân Thật sẵn có của chính mình, nên Ngài mới sáng lập ra đạo Phật.
Trên con đường tu hành để Chuyển Mê Khai Ngộ, trở về Bản Thể Chân Tâm, người Phật tử phải từng bước chuyển hóa vọng tâm, chuyển hóa từ Tham Sân Si trở thành Giới Định Huệ.
Vì thế, Phật chế ra Giới để người Phật tử nương theo, từ sự giữ Giới, giảm bớt mê say dục lạc, tâm hồn dần dần trở nên trong sáng, ứng xử trong đời sống có sự từ tốn, cảm thông với người, với vật, có sự bình tĩnh, có Định lực, tâm trí nhờ thế mà sáng suốt để tiến bước trên con đường Giác Ngộ.
Vì đạo Phật chủ yếu là tự nguyện chuyển tâm nên không có sự áp đặt, lôi cuốn. Người từ đạo khác chuyển qua đạo Phật thường là do nghiên cứu kinh điển, hiểu được cái tinh hoa thâm thúy của đạo Phật mà quay về đường Giác.
Người Phật tử đúng nghĩa là người có tham dự một lễ truyền thọ Tam Quy là Quy y Phật, Quy Y Pháp và Quy Y Tăng, gọi là Quy Y Tam Bảo, nhận Tam Bảo là Thầy. Sau lễ quy y, người Phật tử được thầy truyền thọ Tam Quy đặt cho một pháp danh. Pháp danh này là biểu tượng chính thức của người Phật tử, nói lên sự chấp nhận nương tựa vào Tam Bảo về mặt tinh thần.
Chỉ khi nào đã quy y Tam Bảo thì mới có pháp danh, là tên trong đạo Phật, thí dụ Diệu Tâm, Tuệ Minh, Thiện Đạo, vân vân… Không quy y mà tự mình đặt pháp danh hoặc có ông thầy nào cao hứng tự ý tặng cho người quen biết cái pháp danh dù người đó không hề quy y Tam bảo thì hành động đó là sai trái, là không đúng giới luật của đạo Phật.
Quy y như thế có nghĩa là chấp nhận sự hướng dẫn của Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Phật Bảo là chư Phật, Pháp Bảo là giáo pháp, cụ thể là Tam Tạng Kinh Điển, Tăng Bảo là chư Tăng Ni tu hành thanh tịnh, hiện đang đại diện Chư Hiền Thánh Tăng để hướng dẫn Phật tử trên con đường đến bờ Giác.
Khi quy y Tam Bảo là chúng ta quy y Chư Phật, Chư Pháp và Chư Tăng. Chư Tăng là “tất cả các Tăng“. Cho nên đã quy y Thầy A rồi, khi thấy Thầy B danh tiếng lừng lẫy hơn, bằng cấp cao hơn, ta lại quy y thêm Thầy B là dư thừa, vì khi quy y Thầy A, ta đã đồng thời quy y Thầy B.
Có người nói rằng :” Tôi chỉ quy y “Nhị Bảo“ là Phật và Pháp thôi, còn Tăng thì cũng như tôi, không cần quy y“. Nghĩ như thế là sai lầm. Tăng hiện đang sống, đứng trước mặt chúng ta là phàm tăng. Nhưng các vị ấy đại diện tất cả Tăng Bảo của ba thời là quá khứ, hiện tại và vị lai. Chúng ta quy y như thế là quy y tất cả Chư Hiền Thánh Tăng của ba thời do các phàm tăng đại diện.
Ngoài ra, Quy Y Tam Bảo còn có một nghĩa cốt tủy, rốt ráo, mà Lục Tổ Huệ Năng đã giảng trong cuốn Pháp Bảo Đàn Kinh, chúng tôi xin lược trích sau đây:
Lục Tổ nói:
“Nay ta vì thiện tri thức truyền Vô tướng Tam Quy Y Giới. Khuyên các thiện tri thức, nên Quy Y Tự Tánh Tam Bảo: Phật tức là Giác, Pháp tức là Chánh, Tăng tức là Tịnh.
Tự tâm quy y Giác thì tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc, hay lià tài sắc, gọi là Lưỡng Túc Tôn.
Tự tâm quy y Chánh, niệm niệm chẳng tà kiến, vì chẳng tà kiến nên chẳng có nhơn ngã, cống cao, tham ái, chấp trước, gọi là Ly Dục Tôn.
Tự tâm quy y Tịnh, tự tánh đối với tất cả cảnh giới trần lao ái dục đều chẳng nhiễm trước, gọi là Chúng Trung Tôn.
Nếu tu hạnh này là Tự Quy Y.
Nay đã tự ngộ, mỗi mỗi đều phải quy y Tự Tánh Tam Bảo, bên trong tự sửa tâm tánh, bên ngoài kính mến mọi người, tức là Tự Quy Y vậy.
Thiện tri thức, xưa nay tam thân Phật ở trong Tự Tánh mọi người đều sẵn có, tại tâm mê nên chẳng thấy Tánh bên trong, chỉ hướng ra ngoài tìm tam thân Phật mà chẳng thấy tự thân có tam thân Phật.”
Thưa quý thính giả,
Ngoài Quy Y Tam Bảo, mỗi người Phật tử cũng cần phải biết và cố gắng tiến tới thọ từ một tới cả Năm Giới của nhà Phật, đó là:
– Không sát sinh,
– Không trộm cắp
– Không tà dâm
– Không uống rượu và các chất say sưa
– Không nói dối, nói vu cáo, nói thêm bớt thêu dệt, nói lời xấu ác.
Để quý thính giả thấy được tầm quan trọng của sự giữ giới trong đạo Phật, chúng tôi xin lược trích bài Luận Về Thọ Giới trong cuốn Khóa Hư Lục của vua Trần Thái Tôn, như sau:
“Tịnh giới tiếng Phạn gọi là Ba La Đề Mộc Xoa. Sở dĩ chư Phật ba đời được thành đạo không vượt ngoài giới. Cho nên hiện tại Bồ tát lấy Giới mà độ sanh; vị lai người tu hành do Giới mà giải thoát”.
Kinh nói: “Giới như đất bằng, muôn điều lành từ đó sanh. Giới như thuốc hay, chữa lành các bệnh. Giới như hòn ngọc sáng, hay phá mờ tăm tối. Giới như chiếc thuyền, hay đưa người qua biển. Giới như chuỗi anh lạc, trang nghiêm pháp thân”.
Người có tội phải sám hối, nếu không sám hối thì tội càng sâu. Một phen mất thân này, muôn kiếp chẳng được lại. Ngày nay tuy an, sáng mai khó bảo đảm. Nên giữ Giới pháp này, chóng qua sanh tử. Thờ Phật làm thầy, trước phải y theo Giới luật. Cổ Đức nói: “Qua sông phải dùng bè, đến bờ chẳng cần thuyền“. Đây là cổ nhân dùng Giới luật làm thuyền bè. Song người nay chẳng dùng thuyền bè qua sông, mà được đến bờ kia, thật ít thay!
Thưa quý thính giả,
Vì đạo Phật là đạo chuyển tâm, hứa thọ giới thì phải giữ lời hứa, cho nên nhà Phật không áp đặt vào các em còn nhỏ tuổi, chưa đủ trí khôn để nhận thức được tầm quan trọng của lời hứa, mà người thọ Giới phải đủ trưởng thành, đã biết suy nghĩ chín chắn, thì mới có thể giữ Giới mà không vi phạm.
Trong Năm Giới kể trên, Giới Vọng Ngữ là dễ phạm nhất. Chúng tôi xin lược trích lời dạy của vua Trần Thái Tôn về Giới này như sau:
“Tâm là gốc thiện ác, miệng là cửa họa phúc. Nghĩ một niệm thì hưởng ứng chẳng sai; nói một lời thì bóng theo chẳng lệch. Quân tử trọng lời; cổ nhân ngừa nói. Nói ra thì ngay thẳng công bằng; mở lời không cong queo tà vạy. Không nói đây kia hay dở, chẳng bàn mình phải người sai. Đâu dám khua môi múa lưỡi, cần phải giữ miệng gìn lời. Vả nghiệp của thân là nặng, song họa của miệng là trước. Chẳng những kẻ nói là vọng ngôn, còn khiến người nghe làm bậy. Đời này bị người khinh rẻ, sau khi chết bị nghiệp kéo lôi. Hoặc kềm sắt, kéo lưỡi cam chịu chua cay. Hoặc nước đồng sôi rót vào miệng ôm lòng đau đớn.”
Thưa quý thính giả,
Cư sĩ Hoàng Liên Tâm bàn về vấn đề Họa Tòng Khẩu Xuất (tai họa từ miệng mà ra), đăng trong Thư Viện Hoa Sen khoảng mấy năm trước, như sau:
Do một bản tin ngắn dựa trên các tin đồn được báo chí Cambodia loan tải đã làm cho một đám đông khoảng 500 người Căm Bốt nổi giận đốt cháy toà đại sứ Thái Lan tại Thủ đô Phnom Penth, gây thiệt mạng cho một người Thái Lan, bảy người khác bị thương, ông Đại Sứ phải leo rào thoát chạy ngả sau và làm căng thẳng mối bang giao giữa hai quốc gia Thái Lan và Cambodia.
Trước đây không lâu, cũng do một bài báo loan tải trên nhật báo Ngày Nay (Thisday) ở Nigeria đã châm ngòi cho cuộc bạo động giữa người Hồi giáo và người Thiên Chúa giáo, làm 215 người thiệt mạng và hơn 1000 người bị thương. Phía người Hồi giáo cho rằng bài báo đã xúc phạm đến họ khi nói rằng ngài Mohammad sẽ chọn được vợ trong số các người đẹp tới tham dự cuộc thi hoa hậu thế giới Miss World tại nơi đây. Cuộc thi hoa hậu phải di chuyển sang Anh Quốc, ban biên tập tờ báo đã phải xin lỗi, tờ báo bị đóng cửa, và ký giả bài báo đã bị kết án tử hình để rồi phải lẩn trốn ra nước ngoài tránh bị thọ án.
Chỉ một bản tin viết không đúng sự thật làm cháy nhà, chết người và ảnh hưởng đến bang giao giữa hai xứ. Chỉ một câu nói, đáng lẽ không nên nói đã gây bao tang tóc, làm hàng trăm người chết và hàng ngàn người bị thương. Quả thật là bút máu, là hoạ tùng khẩu xuất như người xưa thường nói.
Tâm ý của con người được diễn tả bằng lời nói hay bằng cách viết trên giấy hoặc gõ trên key board máy vi tính, tuy không phải là lưỡi kiếm, lưỡi dao, tên bắn, hay viên đạn, nhưng nó nguy hiểm vô cùng vì nếu không biết lựa lời mà nói, lựa chữ mà dùng thì nó có thể gây tang tóc cho nhiều gia đình, làm bại hoại xã hội và đồng thời tác hại lại chính người nói như hai sự kiện đã nêu trên.
Ngày xưa, ở bên Tầu, có một nhà thơ nổi tiếng được một vị quan Tổng Đốc tham ô khen ngợi nên nhà thơ đã dùng ngòi bút của mình làm thơ ca ngợi đức độ của ông ấy. Những bài thơ đã được khắc vào bia đá trong làng. Nhờ vậy, vị quan đã tránh được cuộc thanh tra của viên Khâm sai triều đình, do đơn tố cáo của dân.
Sau khi viên thanh tra trở về kinh đô, quan Tổng Đốc ra lệnh bắt giết tất cả những người đã tố cáo ông tham nhũng, hà hiếp dân lành. Do vì lời khen ngợi, tán thán không chân thật về quan Tổng đốc, nên đã mang tang tóc đến nhiều gia đình và tự mang nghiệp vào mình.
Ngày nay cũng vậy, nhiều người cũng vì danh lợi, cũng vì muốn được người ta khen nên thường ca ngợi lẫn nhau, đâu có biết rằng nếu không có trí tuệ sáng suốt thì ngòi bút của mình sẽ gieo rắc sai lầm cho nhiều người và có thể cho cả những thế hệ mai sau.
Đối với tôn giáo, ảnh hưởng có thể còn nhiều hơn nữa. Thí dụ một người tự cho mình là Thánh, là Phật rồi được những người khác thiếu hiểu biết tâng bốc, xưng tán, khen ngợi, và cứ như thế lộng giả thành chân và người đó tưởng mình là Thánh nhân thật, nên dù nói ra những lời sai với chân lý, người nghe vẫn tin theo. Thế là cùng nhau lạc vào con đường tà mà không hay biết. Cho nên người khen và người được khen đều cùng nhau tác nghiệp và chắc chắn không nhân nào mà không sanh ra quả. Chỉ còn chờ duyên với thời gian thôi. Trường hợp của ký giả tờ báo xứ Cambodia và tờ Ngày Nay (Thisday) ở Nigeria chỉ tác hại đến việc giết hại một số người, đem tang tóc đến cho một số gia đình, nhưng ở những trường hợp khác, ngòi bút, nếu không dùng những lời chân thật, có thể dẫn dắt con người đi ngược lại chân lý của từ bi trí tuệ, gieo rắc ác tâm cho bao nhiêu người qua nhiều thế hệ mới là những nguy hiểm gấp trăm ngàn lần.
Trong kho tàng chuyện cổ Phật Giáo có câu chuyện ngắn về một con rùa và hai con cò trắng. Chuyện kể rằng: Thưở xưa, ở trong một cái hồ kia có một con rùa và hai con cò trắng thường lui tới làm bạn với nhau. Năm nọ trời bị hạn hán, không có một cơn mưa nào cả. Nước trong hồ cạn dần và nhiều loài cá bị chết. Chàng rùa rất sợ chết, muốn đi nơi khác nhưng không biết nơi đâu có ao hồ, bèn hội ý với hai bạn cò trắng. Hai vợ chồng cò trắng cho chàng rùa biết cách khoảng hơn trăm dặm có một hồ sen lớn không bao giờ cạn nước, có thể di tản đến đó được nhưng phải can đảm và bình tĩnh.
Vợ chồng cò trắng nói: “Chúng tôi mỗi người ngậm một đầu cây còn bác phải ngậm chặng giữa cây, chúng tôi sẽ tha bác đến hồ kia, nhưng lúc ngậm cây, bác cẩn thận chớ nói chuyện” . Chàng rùa vâng lời, ngậm chặt khúc cây, hai con cò tha chú rùa bay ngang qua xóm làng. Lũ trẻ con trông thấy reo hò: “Hai con cò tha một con rùa” . Rồi có đứa la lớn lên: “A ha thật giống hai thằng câm dắt một thằng thầy bói mù!” Chàng rùa tức giận, không kềm giữ miệng được, muốn nói: “Có mắc mớ gì bay, mặc kệ chúng tao, đồ nhãi con.” Tội nghiệp thay, vửa mở miệng, chàng rùa đã bị rơi xuống đất chết.
Đức Phật nhân đây nói bài kệ:
Con người ở thế gian
Búa bén nằm trong miệng
Sở dĩ chém thân mình
Là do lời nói ác.
Điều đáng chê lại khen
Điều đáng khen lại chê
Là tự chuốc tai hoạ
Không có chút gì vui.
(Ngũ phần luật quyển 25)
Đạo Phật là đạo tôn trọng sự thật, vì thế mà một trong năm giới của Phật tử là “Không Được Nói Sai Sự Thật“. Nói dối, nói lời thêu dệt, nói hai lưỡi và nói những lời hung ác; ngay cả nói những lời khen không đúng sự thật, những lời để mưu cầu tài lợi, danh vọng và sự kính phục, những lời gây chia rẽ căm thù cho đến những văn chương bóng bảy làm cho người đọc phải loạn tâm, sinh phiền não, người được khen sinh tự mãn, đều thuộc phạm vi giới cấm này.
“Xét kỹ mọi việc rắc rối lôi thôi ở đời chỉ từ cửa miệng mà ra. Ngàn tai ương, muôn tội lỗi xảy ra cho người và cho mình đều do lời nói sai sự thật. Còn nếu dùng lời chân thật, lời hiền lành, lời hoà ái sẽ mang lại an lạc hạnh phúc cho mình, cho người. Cả hai đều lợi lạc và an vui. Nhà Phật rất coi trọng sự chân thành, nói năng thành thật là một trong Bát Chánh Đạo.”
TAMTHUC