Mười can khắc ứng quyết
Lục giáp đồng lục Mậu, thiên bàn Mậu thêm địa bàn Mậu, gọi là là phục ngâm. Những việc bế tắc tĩnh thủ là cát.
Mậu thêm Mậu ( Giáp trực phù ) gọi là là "Phục ngâm" . Những việc bế tắc, tĩnh thủ là cát.
Thêm Ất là "Thanh Long hợp linh", môn cát sự cát, môn hung sự hung.
Thêm Bính là "Thanh Long phản thủ", hoạt động làm việc là đại cát, nếu gặp bách, mộ, kích, hình, cát sự thành hung.
Thêm Đinh là "Thanh Long diệu minh", gặp quý nhân cầu danh cát lợi, nếu trực mộ, bách, cố làm cũng như không.
Thêm Kỷ là "Quý nhân nhập ngục", công và tư đều bất lợi.
Thêm Canh là "Trực phù phi cung", cát sự không cát, hung sự càng hung.
Thêm Tân là "Thanh Long chiết túc", cát môn sinh trợ thì còn có thể mưu cầu,
Nếu gặp hung môn, chủ gây tai hoạ, thất tài, có hại đến chân tay.
Thêm Nhâm là "Thanh Long nhập thiên lao", phàm âm dương đều là điềm xấu.
Thêm Quý là "Thanh Long hoa cái" cách cát thì người cát, chiêu phúc, môn hung nhiều điều bất thường.
Ất thêm Mậu ( Giáp trực phù ) là "Lợi âm hại dương", môn gặp hung bách, phá tài người gặp hạn.
Thêm Ất là "Nhật kì phục ngâm", không nên yết quý cầu danh, chỉ có thể an phận thủ thân.
Thêm Bính là "Kì nghi thuận toại", cát tinh thiên quan tiến chức, hung tinh vợ chồng ly biệt.
Thêm Đinh là "Kì nghi tương tá", công văn sự cát, trăm sự đều có thể.
Thêm Kỷ là "Nhật kì nhập vụ", bị thổ ám muội, môn hung tất hung, được tam cát môn là "Địa độn" .
Thêm Canh là "Nhật kì bị hình", tranh tụng tài sản, vợ chồng dối nhau.
Thêm Tân là "Thanh Long đào tẩu", nô bộc lừa gạt, lục súc đều bị thương.
Thêm Nhâm là "Nhật kì nhập địa", kẻ trên lừa dối, quan tụng thị phi.
Thêm Quý là "Hoa cái phùng tinh", quan ẩn cư tu đạo, ẩn nấp giấu hình, trốn họa tị nạn là cát.
Bính thêm Mậu ( Giáp trực phù ) danh "Phi điểu điệt huyệt", trăm sự mưu việc đều thông suốt.
Thêm Ất là "Nhật nguyệt song hành", công mưu tư là đều cát.
Thêm Bính là "Nguyệt kì Bột sư", công văn bức bách, tổn thất đồ vật.
Thêm Đinh là "Nguyệt kì Chu Tước", quý nhân công văn cát lợi, thường nhân bình tĩnh, được tam cát môn là "Thiên độn" .
Thêm Kỷ là "Thái Bột nhập hình", tù nhân hình trượng, công văn không được, cát môn được cát, hung môn chuyển hung.
Thêm Canh là "Huỳnh nhập Thái Bạch", của nhà phá bại, đạo tặc trộm đồ.
Thêm Tân là "Mưu sự tựu thành", người bệnh không hung.
Thêm Nhâm là "Hỏa nhập thiên la", là khách bất lợi, thị phi rất nhiều.
Thêm Quý là "Hoa cái Bột sư", phụ nữ hại sự, tai hoạ luôn sinh.
Đinh thêm Mậu ( Giáp trực phù ) là "Thanh Long chuyển quang", quan thăng chức, thường nhân hưng thịnh.
Thêm Ất là "Nhân độn" cát cách, quý nhân gia quan tiến tước, thường nhân hôn nhân tài hỉ.
Thêm Bính là "Tinh tùy nguyệt chuyển", quý nhân vượt cấp thăng chức, thường nhân trong vui sinh buồn.
Thêm Đinh là "Kì nhập Thái Âm", công văn tức tới, việc vui như ý.
Thêm Kỷ là "Hỏa nhập Câu Trần", gian tư thù oan, việc do nữ nhân.
Thêm Canh là "Niên nguyệt nhật thời cách", công văn cách trở, người đi đường tất về.
Thêm Tân danh viết "Chu Tước nhập ngục", tội nhân ra tù, quan nhân thất vị.
Thêm Nhâm danh viết "Ngũ thần hỗ hợp", quý nhân bày tỏ ân huệ, kiện tụng công bằng.
Thêm Quý danh viết "Chu Tước đầu giang", công văn khẩu thiệt đều tiêu tan, âm tín trầm tịch.
Kỷ thêm Mậu ( Giáp trực phù ) là "Khuyển ngộ Thanh Long", môn cát mưu cầu toại nguyện, bề trên gặp vui mừng, môn hung uổng phí sức cơ
Thêm Ất tên là "Mộ thần bất minh", địa hộ bồng tinh, nên ẩn cư ẩn hình là lợi hơn.
Thêm Bính danh viết "Hỏa Bột địa hộ", người nam bị hại oan uổng, phụ nữ tất trí dâm ô.
Thêm Đinh danh viết "Chu Tước nhập mộ", văn trạng kiện tụng, trước cong sau thẳng.
Thêm Kỷ tên là "Địa hộ phùng quỷ", người bệnh hẳn chết, trăm sự bất thành.
Thêm Canh danh viết "Hình cách", cầu danh, kiện tụng mà động trước là bất lợi, âm tinh có mưu hại tình cảm.
Thêm Tân danh viết "Du hồn nhập mộ", đại nhân quái gở, tiểu nhân gia tiên là mờ ám.
Thêm Nhâm danh viết "Địa võng cao trương", giảo đồng dật nữ, gian tình sát thương.
Thêm Quý danh viết "Địa hình Huyền Vũ", nam nữ tật bệnh đe dọa, kiện tụng có tù ngục tai ương.
Canh thêm Mậu ( Giáp trực phù ) viết "Thái Bạch thiên Ất phục cung", trăm sự không thể mưu, hung.
Thêm Ất là "Thái Bạch bồng tinh", lui cát tiến hung.
Thêm Bính viết "Thái Bạch nhập huỳnh", chiêm giặc (trộm) tất đến, là khách tiến lợi, là chủ phá tài.
Thêm Đinh viết "Đình đình chi cách", người thân khởi quan tòa, môn cát có thể cứu chữa.
Thêm Kỷ viết tên là "Hình cách", quan tòa bị trọng hình.
Thêm Canh viết "Thái Bạch đồng cung", quan họa tai bất ngờ, huynh đệ tranh giành.
Thêm Tân viết "Bạch Hổ Can cách", đi xa xe hỏng ngựa chết.
Thêm Nhâm viết "viễn hành thất mê đạo lộ", nam nữ âm tín than thở.
Thêm Quý tên là "Đại cách", người đi đường gặp quan tư thì bị dừng lại, sinh sản mẫu tử đều thương, đại hung.
Tân thêm Mậu ( Giáp trực phù ) viết "Khốn long bị thương", quan tòa hủ bại, chịu ức thủ phận, vọng động tai hoạ.
Thêm Ất viết "Bạch Hổ xương cuồng", nhân vong gia bại, đi xa nhiều tổn hại, tôn trưởng không mừng, xe thuyền đều thương hại.
Thêm Bính viết "Can hợp Bột sư", Huỳnh Hoặc xuất hiện, chiêm mưa thì không, chiêm tạnh hạn, chiêm sự tất người tài gửi kiện tụng.
Thêm Đinh viết "Ngục thần đắc kì", buôn bán bọi thu, người người gặp đại xá khoan dung.
Thêm Kỷ viết "Nhập ngục tự hình", nô bộc phản chủ, tụng tố khổ thân.
Thêm Canh viết "Bạch Hổ xuất lực", đao kiếm tranh nhau, chủ khách tương tàn, nhún nhuận nhường bước, chỉ cần cường tiến, máu tươi quần áo.
Thêm Tân là "Phục ngâm thiên đình", công phế tư thành, tụng ngục tự lo tội danh.
Thêm Nhâm viết "Hung xà nhập ngục", lưỡng nam tranh nữ, kiện tụng không thôi, trước động thất lí.
Thêm Quý viết "Thiên lao hoa cái", nhật nguyệt u ám, ngộ nhập thiên võng, hành động chỉ gặp quái đản.
Nhâm thêm Giáp Tý Mậu ( Giáp trực phù ) danh viết "Tiểu xà hóa long", nam nhân phát đạt, nữ sinh con khỏe.
Thêm Nhật kì sáu Ất danh viết cách "Tiểu xà", nữ tử nhu thuận, nam nhân than thở, chiêm dựng sinh tử, lộc mã quang hoa
Thêm Nguyệt kì sáu Bính danh viết "Thủy xà nhập hỏa", quan họa hình cấm nối liền không dứt.
Thêm Tinh kì sáu Đinh danh viết "Can hợp xà hình", công văn liên lụy, quý nhân vội vàng, nam hung nữ cát.
Thêm Giáp Tuất Kỷ danh viết "Hung xà nhập ngục", đại họa sắp tới, thuận thủ thì cát, kiện tụng thì thua.
Thêm Giáp Thân Canh danh viết "Thái Bạch cầm xà", hình ngục công bằng, phân lập tà chính.
Thêm Giáp Ngọ Tân danh viết "Đằng xà tương triền", dẫu được cát môn, cũng không thể an, nếu có mưu vọng, bị người lừa gạt.
Thêm Giáp Thìn Nhâm danh viết "Xà nhập địa la", ngoại nhân quấy nhiễu, nội sự tan tác, môn cát tinh hung, uổng công lần nữa.
Thêm Giáp Dần Quý danh viết "Ấu nữ gian dâm", nhà có tiếng xấu, môn tinh đều cát, phản họa phúc lớn.
Quý thêm Giáp Tý Mậu ( Giáp trực phù ) là "Thiên Ất hội hợp" cát cách, tài hỉ hôn nhân, người tốt hỗ trợ thành hợp, nếu môn hung bách chế, bị quan gọi lại.
Thêm Nhật kì sáu Ất danh viết "Hoa cái bồng tinh", quý nhân được bổng lộc và chức quyền, thường nhân bình an.
Thêm Nguyệt kì sáu Bính danh viết "Hoa cái Bột sư", giàu nghèo gặp nhau, bề trên gặp vui.
Thêm Tinh kì sáu Đinh danh viết "Đằng xà yêu kiều", công văn quan tòa, hỏa thiêu khó thoát.
Thêm Giáp Tuất Kỷ danh viết "Hoa cái địa hộ", nam nữ chiêm đến, thư tín đều bị ngăn trở, trốn họa tị nạn là cát.
Thêm Giáp Thân Canh viết "Thái Bạch nhập võng", dùng bạo tranh tụng lực bằng.
Thêm Giáp Ngọ Tân viết "Võng cái thiên lao", chiêm kiện tụng chiêm bệnh, tử tội khó trốn.
Thêm Giáp Thìn Nhâm viết "Phục kiến đằng xà", giá thú trọng hôn, sau cưới không con, khó giữ được thời.
Thêm Giáp Dần Quý viết "Thiên võng tứ trương", người đi đường mất bạn, bệnh tật với kiện tụng đều thương tổn.
Bản dịch giamadao - tvls
trích Kì môn độn giáp bí tịch đại toàn quyển nhị