Con người đã và đang tìm kiếm các dấu hiệu tin cậy về cái chết để tránh xảy ra những trường hợp đáng tiếc. Nhưng bên cạnh đó, các nhà khoa học lại thực sự lúng túng khi một số người đã kề cái chết tiết lộ những gì mà họ cảm nhận được trong thời gian hoàn toàn bất tỉnh hoặc mất hết hy vọng được cứu sống…
Vào năm 1987, tại một sân bay nhỏ của Anh đã xảy ra một tai nạn khi máy bay hạ cánh. Một bác sỹ ngồi ghế phía sau bị văng ra khỏi máy bay, ngất đi và không có dấu hiệu sống. Từ nơi ông ngã gục không thể nào nhìn được quang cảnh xung quanh, nhưng thật lạ lùng người đó thấy rất rõ những gì xảy ra ở sân bay. Nạn nhân thấy thân thể của chính mình nằm bất động ở phía dưới mình khoảng 60 m, thấy cả người hoa tiêu và người phi công dính máu đang chạy tới phía mình.
Việc người đó biểu lộ sự chú ý đối với thân thể của ông làm ông ngạc nhiên và bực tức. Ông muốn được yên tĩnh. Sau đó, nạn nhân thấy một chiếc xe cứ thong thả từ nhà để xe đi ra và một bác sỹ nhảy vào. Xe chở nạn nhân dừng lại ở một trạm xá và lấy theo các thiết bị.
Tiếp đó, nạn nhân theo dõi thấy xe chạy với vận tốc lớn, mang thi thể của ông tới một bệnh viện trong thành phố. Thân thể ông được đặt lên một cái bàn trắng, mọi người cúi xuống làm việc và ông cảm thấy khó chịu bởi mùi clorua amonium. Vào đúng thời điểm đó, ý thức rõ ràng và bình thản của nạn nhân đột nhiên mờ hẳn và lại “quay” vào trong thân thể bị thương. Sau này, do tò mò, người ta đã phục hồi tỉ mỉ các sự việc ấy và những điều được mô tả hoàn toàn khớp với thực tế.
Năm 1992, một nhà địa chất người Thụy Sỹ tên Enbo Hem bị trượt ngã xuống vực sâu, nhưng may mắn thoát chết. Quan tâm đến những cảm nhận của mình trong khoảnh khắc hoàn toàn tuyệt vọng, nhà địa chất đã thu nhận được 32 trường hợp tương tự. Ông nhận thấy rằng, tất cả các đồng sự của mình đều trải qua một cái gì đó giống nhau ở ngưỡng cửa của cái chết khó tránh khỏi. Những quan sát đó của E. Hem đã được bổ sung đáng kể, đặc biệt là vào những năm gần đây, khi công việc hồi sinh đã có nhiều kết quả.
Khi rơi ở độ cao lớn ở thời điểm đầu tiên, con ngưòi sẽ trải qua sự sợ hãi mạnh mẽ, tìm kiếm một cách vô vọng các khả năng cứu thoát. Giai đoạn thứ hai xuất hiện sự nhận thức đầy đủ về cái chết không thể tránh khỏi não bộ. Cái chết không còn làm kinh hoàng và phiền muộn nhưng những điều vụn vặt ngớ ngẩn lại làm ta lo lắng: xót xa vì rách bộ quần áo đang mặc, vỡ vụn cặp mắt kính đang đeo hoặc hỏng mất cái máy ảnh…
Nếu thời gian đủ dài thì sẽ xuất hiện giai đoạn thứ ba – hồi tưởng quá khứ. Các thời điểm quan trọng nhất của cuộc đời hiện ra thành các mảng hình ảnh, giống như quan sát chúng từ tầng trên của rạp hát. Tuy nhiên, những hình ảnh ấy, mãnh liệt đến mức độ nào còn tùy thuộc vào đặc điểm cá nhân của mỗi người.
Năm 1993, một người trượt tuyết 19 tuổi bị ngã từ độ cao hàng ngàn mét và thoát chết với cái mũi dập nát. Nạn nhân kể lại: “Khi bắt đầu rơi, tôi gào thét thảm thiết. Nhưng sau đó, tôi hiểu rằng tôi đã chết. Cả cuộc đời hiện ra trước mắt tôi như một ánh chớp. Tôi thấy gương mặt của mẹ tôi, thấy ngôi nhà mà trong đó tôi sống, thấy bạn bè…”
Các cảm xúc hồi tưởng quá khứ kéo dài không lâu và di chuyển trên một trạng thái thần bí “mê li khoái lạc”. Khi một người rơi xuống vực thẳm thì người đó hiểu rằng, thân thể của họ sẽ va vào đá, xương sẽ gãy vụn và dập nát. Nhưng sự hồi tưởng về bản thân hoàn toàn không liên quan đến cơ thể nữa. Bắt đầu từ một thời điểm nào đó, nạn nhân không hề lưu tâm đến “thân xác” của mình. Sự cảm nhận của bản thân bị xâm chiếm bởi các ý nghĩ tuyệt đẹp và xen lẫn những nốt nhạc du dương.
Trong một trạng thái tinh thần thanh thản, nạn nhân bay qua các bầu trời màu hồng và màu cam lộng lẫy. Ở trạng thái siêu việt đó, nạn nhân cảm thấy dễ chịu đến nỗi nảy sinh sự phản kháng rõ rệt chống lại những cố gắng đưa cơ thể về lại với sự sống. Tuy nhiên, đôi khi con người cũng có thể rơi vào trạng thái đặc biệt do quá sợ hãi. Trường hợp như vậy đã xảy ra với nhà du lịch nổi tiếng David tại một vùng rừng châu Phi. Một con sư tử nhảy đến sau lưng ông và bắt đầu cấu xé.
Nạn nhân ngã sấp, cảm thấy rơi vào trạng thái thiêm thiếp, không hề thấy đau và hoảng hốt. Nạn nhân không thể và không muốn cử động, phản kháng. sau đó, con sư tử chấm dứt hành hạ cơ thể nạn nhân và ngồi cạnh ông. Khi đó sức lực của nhà du lịch đột nhiên trở lại. Ông ngồi bật đậy và phóng chạy thoát thân.
Trong những năm gần đây, các cảm nhận của những người “hồn sắp rời khỏi xác” đã được phân tích tỉ mỉ trong quyển sách của R. Moudi: “Cuộc sống sau cái chết”. Những người như vậy trải qua một cái gì đó giống nhau, mặc dù độ rõ nét có thể khác nhau. Họ rời bỏ “thân xác” và dễ dàng bay bổng lên không trung, quan sát hành vi của mọi người khác từ phía trên. sau đó một quầng sáng xuất hiện, giúp họ nhớ lại các sự việc của cuộc đời. Quầng sáng có thể thúc dục họ trở lại với “thân xác” vì còn chưa tới lúc “chuyển”.
Một câu hỏi hay được đặt ra là: làm thế nào để phân biệt một người đang bất tỉnh nhân sự với một người vừa mới chết? Lịch sử y học đã chứng kiến nhiều trường hợp mà trong đó các bác sỹ giàu kinh nghiệm nhất cũng mắc phải sai lầm. Vào thế kỷ XVI, A. Vezali bị kết án tử hình vì đã giải phẫu thân thể một nhà quý tộc Tây Ban Nha. Người này đã tỉnh lại trên bàn mổ và bình phục trở lại. Tuy thế bản án đối với A. Verali vẫn được thi hành. Một điều trùng hợp kỳ lạ là chính viên quan tòa đã dựng lên bản án đó chẳng bao lâu cũng hồi tỉnh trên bàn mổ tử thi, nhưng sau đó ông ta không qua khỏi.
Vào năm 1964, tại một trong các nhà xác ở New York có một “tử thi” sống lại, đã nắm chặt lấy cổ nhà phẫu thuật bệnh lý khi ông ta vừa thao tác dao mổ. Nhà thơ Petraka đã hồi tỉnh trước khi đi mai táng bốn giờ và còn sống thêm được 30 năm nữa. Một người phục vụ ở Vatican được coi là đã chết do bệnh hen. Trong số các bác sỹ làm nhiệm vụ có một người đã rất cẩn thận đưa ngọn nến đến gần mắt người chết, “Tử thi” co giật mạnh và sau đó còn sống được khá lâu với một cái sẹo trên mũi do bị bỏng.
Vào đầu thế kỷ XX, một hội đồng các bác sỹ có uy tín ở Anh đã tiến hành nghiên cứu và kết luận rằng, mỗi năm ở nước này có khoảng 2500 người bị chôn sống. Có thể đỉều vừa nêu bị phóng đại, nhưng quả thật có không ít trường hợp những người còn sống đã bị chôn vùi. Chính tại Anh vào những năm cuối 60, đã xuất hiện một thiết bị đầu tiên cho phép ghi nhận được hoạt tính điện rất nhỏ của tim.
Trong lần thử đầu tiên tại một nhà xác, người ta đã phát hiện được một cô gái còn sống nằm giữa các tử thi, những điều trên cho thấy rằng. Giữa sự sống và cái chết không có một ranh giới rõ ràng như đôi khi chúng ta vẫn tưởng. Sự ngừng thở được xem là dấu hiệu đầu tiên của cái chết. Nhưng ngay từ thế kỷ trước, quan điểm đó đã bị phủ nhận hoàn toàn. Các nhà yoga có thể điều khiển nhịp đập của tim sao cho các dụng cụ đo chính xác cũng chỉ báo là tim hoàn toàn ngừng đập.
Số đo thân nhiệt cũng không thể là dấu hiệu đầy đủ của cái chết. Đã có những trường hợp người đứng tuổi sống qua ngày ở một khu nhà lạnh lẽo, nhiệt độ thân thể hạ xuống khoảng 24 độ C mà họ vẫn không chết. Một cậu bé ở Thụy Điển được tìm thấy dưới lớp tuyết với nhiệt độ thân thể 18 độ C nhưng đã bình phục mà không có những biến chứng đáng kể. Một số chứng bệnh (tả, đậu mùa, uốn ván..) có thể làm cho thân thể tăng nhiệt độ sau khi chết.
Sự thay đổi ở nhãn cầu hay sự tê cứng của thân thể cũng không phải là dấu hiệu tin cậy của cái chết. Cái chết tiến tới không tức thời. Đó là một dạng tồn tại đặc biệt, một sự tiến hóa dần dần với một xác suất thuận nghịch nhất định. Tử thi không có trường sinh học và cái đó cũng không là dấu hiệu của cái chết, bởi vì trường sinh học ở người sống cũng có thể tạm thời biến mất. Tử thi có thể lưu giữ một hoạt tính điện nào đó cho đến ngày thứ 39, khi mà xung não đáng kể cuối cùng được ghi nhận.
Tuy vậy, việc hồi sinh được phép tiến hành sau khi nạn nhân chết chỉ mấy phút. Bởi vì nếu để lâu quá thì trong một số trường hợp, những người được cứu sống sẽ tiếp tục tồn tại mà không có tri giác, giống như những con búp bê sống. Giới hạn thời gian hồi sinh phụ thuộc vào các khả năng của nền y học hiện đại. Tát cả những điều nêu trên có tác dụng lưu ý chúng ta hãy thận trọng khi xem xét các quá trình xảy ra với con người trên ranh giới giữa sự sống và cái chết.
ớ ở miền Đông Nam bộ, trong 1 cái ấp bé xíu xiu ngay trên quốc lộ 20. Năm 73 – 75 tớ đi học ở nơi khác nên chẳng biết mùi chiến tranh là gì. Sau GP nhà tớ đi kinh tế mới mấy tháng, đói quá không chịu nổi lại tục tục bò về nhà cũ (QL 20).
Đêm đầu tiên về thằng em tớ bỏ đi chơi đâu tối hù không về, mà lúc đó tình hình an ninh còn tệ lắm, thế là bà nội tớ và tớ cầm đèn dầu đi tìm (làm gì mà có điện).
Trời tối thui, gió lạnh hù hù, 2 bà cháu dắt díu nhau đi, bà nội tớ lúc đó mới ngòai 50 và là người rất cứng rắn. Khi đến cổng nhà thờ, tay tớ cầm cái đèn dầu ngang bụng để soi đường thì tớ nhìn thấy người. Ui trời. type đến đây mọi loại lông lại khiếu nại rồi. Thế là tớ hỏi: Quang hả? Quang là tên em tớ mà.
Khi miệng tớ hỏi thì tớ đã biết là không phải rồi, vì cái mà tớ thấy là một phần thân phụ nữ trong cái quần patte màu trắng, và tớ biết chắc là con gái vì nó ôm một chiếc hông rất tròn. Tớ không thấy phần trên mà chỉ nhìn thấy phần từ thắt lưng xuống, và còn thấy rõ ràng bằng mắt (lúc đó mắt mới mười mấy tuổi, còn tốt lắm) đừờng chỉ may dằn trên quần nữa. Đừng có ai hỏi tớ có thấy chân không nhé, vì cái đèn dầu bé tí làm sao mà thấy được nhiều.
Lúc đó tớ nghĩ: Con gái nhà ai mà giờ này tối thui dám đi một mình ra đường (ôi giời ơi, tóc tai dựng đứng lên rồi đây), tao phải coi mày là đứa nào đấy. Lưu ý các mẹ: thời đó ít có con gái nào dám đi đêm lắm. Mà tớ thì ở đó từ bé, quen hết cả ấp mờ.
Thế là tớ làm một việc rất chi là mất lịch sự, đó là giơ cái đèn lên trên xem mày là con nào đấy. Và tiếp theo là tớ bủn rủn tay chân.
Ngưng đây, mai kể tiếp, hết giờ rồi…